Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 55
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
109
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải
trang một trăm hai mươi chín, ḍng thứ bảy,
xem từ câu cuối cùng: “Hựu
Câu Xá Luận hữu tứ phước điền”,
(lại nữa, Câu Xá Luận nói có bốn loại
phước điền), xem từ chỗ này.
“Nhất,
thú điền, súc sanh dă” (Một là thú điền,
tức súc sanh). “Trữ công
đức, thị phước điền”, câu kinh văn này chỉ
dạy chúng ta phải tu phước. Trong giáo pháp
Đại Thừa thường nói “phước điền tâm chủng” (vun trồng
cái tâm phước điền), chúng ta nhất định
phải giữ thiện tâm, phải có thiện ư
đối đăi hết thảy hữu t́nh chúng sanh.
Nếu chúng ta có thể đối đăi súc sanh bằng ḷng
thương yêu, che chở, đương nhiên sẽ
chẳng thể hại người. Do vậy, trong bốn
loại phước điền, Câu Xá Luận xếp súc
sanh đầu tiên rất hữu lư. Chẳng hạn như
đối với muỗi, trùng, kiến mà chúng ta
đều yêu thương, che chở, chẳng tổn
hại chúng nó, đương nhiên sẽ chẳng gây
tổn thương cho những loài động vật
lớn, đó là đạo lư nhất định. Tiểu
động vật mà quư vị đều yêu thương,
che chở, sẽ chẳng làm hại loài to hơn, càng
chẳng thể tổn thương, làm hại loài
người. Dụng ư ở chỗ này, chúng ta chớ nên
không biết.
Thứ hai là “khổ điền”: Thấy kẻ bần cùng, khốn
khổ, chúng ta nhất định phải tận tâm
tận lực giúp đỡ họ. Chưa đủ
sức, người khác bần cùng, khốn khổ, ta
cũng bần cùng, khốn khổ, ta chẳng thể giúp
kẻ ấy về tài lực th́ cũng nên tụng kinh,
niệm Phật hồi hướng, cầu phước
cho kẻ ấy ḥng giúp đỡ kẻ ấy. Nếu có
duyên phận có thể tiếp xúc với họ, phải
giảng rơ ràng, minh bạch những đạo lư sau
đây: V́ sao một đời này chúng ta gặp cảnh
bần cùng, khốn khổ? Đó là quả báo. Quả
nhất định phải có nhân, chúng ta thật sự có
thể t́m ra cái nhân, tiêu trừ từ cái nhân, quả báo
sẽ được thay đổi tốt đẹp
hơn. Trong các kinh điển giảng về nhân quả,
những chuyện này được giảng rất
tỉ mỉ, rất rơ ràng. Kinh phổ biến nhất mà
chúng ta đều có thể xem là Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên của Đạo Gia, trong ấy đă nêu ra
thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo, tổng cộng
một trăm chín mươi lăm điều. Chúng ta
phải hiểu rơ ràng, rành rẽ một trăm chín
mươi lăm điều ấy, đều có thể
thực hiện được, trong một đời này, chúng ta sẽ thật sự
ĺa khổ được vui. Chúng ta hăy đối chiếu
những khổ nhân đă nói trong ấy với những
khổ báo [trong hiện thời] của chúng ta, sẽ
t́m được cái nhân để sửa đổi nó.
Chẳng có cách nào sửa đổi quả, v́ nó đă chín
muồi, nhưng có thể thay đổi nhân. Nếu ta
không tạo cái nhân ấy, cái quả ấy sẽ dần
dần chẳng c̣n hiện tiền nữa. Chúng ta mong có
quả báo tốt đẹp, nhất định phải
tạo nhân tốt đẹp.
Thời cổ, giáo dục chẳng
phát triển như hiện thời, tôi nói lời này
cũng phạm khuyết điểm, v́ sao? Thời cổ
thật sự có giáo dục! Tuy hiện thời,
trường học rất nhiều, nhưng chẳng
phải là giáo dục, chẳng giống như giáo dục
vào thuở xưa tại Trung Quốc. Vào thời cổ, trường học ở Trung Quốc là
giáo dục, tốt đẹp mọi lẽ, dạy quư
vị làm người như thế nào, làm một
người tốt ra sao. Đó là giáo dục. Mục
đích giáo học trong giáo dục truyền thống
của Trung Quốc chính là ba cương lănh đă
được giảng rất minh xác, rất rơ ràng trong
sách Đại Học, mục đích giáo dục là đâu?
Ở trong “minh minh đức,
thân dân, chỉ ư chí thiện”, đó là mục đích
giáo dục thuở trước. Nói đơn giản
hơn một chút, dùng một chữ để nêu rơ th́
sẽ là như Tam Tự Kinh đă nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, mục đích
giáo dục là khiến cho chúng ta trở về bổn
thiện; đấy là mục đích giáo dục của
Trung Quốc trước kia. Hiện thời, chẳng
thể t́m được một nền giáo dục như
vậy, chẳng c̣n nữa! Giáo dục hiện thời là [chú
trọng rèn luyện] kỹ thuật, kỹ năng, giúp quư
vị kiếm được một việc làm trong xă
hội ḥng mưu sinh, lấy đó làm mục đích. Nói
cách khác, nhằm mục đích kiếm lợi, ích kỷ,
lấy kiếm lợi làm mục đích, hoàn toàn
tương phản thời cổ. Người xưa
đọc sách “chí tại thánh
hiền” (chí mong thành thánh, thành hiền), v́ sao ta
đọc sách? Ta mong làm thánh nhân hay làm hiền nhân, thánh
hiền là trở về bổn thiện. Mục đích
học hành khác nhau.
Mưu sinh trong xă hội
chẳng trọng yếu! [Cổ nhân quan niệm] “trời
đă sanh ra ta, đương nhiên ta sẽ có cái ăn,
chẳng bị chết đói, làm người mới là
quan trọng”. Quư vị thấy hiện thời, trong xă
hội hiện tại, những người trẻ
tuổi biết làm việc, chứ không biết làm
người. Giáo dục thời cổ là vừa biết
làm người vừa biết làm việc. V́ sao?
Trước hết, dạy quư vị làm người
rồi mới dạy quư vị làm việc. Làm người
chẳng xong, chẳng cần nói tới làm việc nữa!
Từ Luận Ngữ, quư vị thấy Khổng lăo phu
tử dạy học tṛ những ǵ? Thứ nhất là
đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, thứ ba
mới là chánh sự, “chánh
sự” (政事) là khả năng làm việc. Trong
tương lai, quư vị muốn theo đuổi một
nghề nghiệp nào, sau khi học xong, quư vị có thể
kiếm sống. Đức hạnh và ngôn ngữ
được xếp trước, cuối cùng mới là
văn học, văn học là nghệ thuật, nhằm nâng
cao phẩm chất cuộc sống của chính ḿnh. Đó
là chuyện cuối cùng. Người hiện thời
gọi điều này là “giá
trị quan” (cách nhận định giá trị), thời
cổ chẳng có danh từ này. Giáo học thời cổ
theo giá trị quan nào? Giá trị quan của thánh hiền, giá
trị quan của quân tử. Hiện thời điên
đảo, người hiện tại chỉ cần
học sao cho có khả năng kiếm tiền là
được rồi, chẳng cần học làm người,
nên xă hội rối loạn. Xă hội vừa loạn,
địa cầu liền bị bệnh. Quư vị
thấy chánh báo của chúng ta xuất hiện vấn
đề, y báo bèn trục trặc theo! Y báo là hoàn cảnh
sống của chúng ta. Hoàn cảnh sống chẳng tách
rời địa cầu, trong một hai năm qua, các
thứ tai biến trên địa cầu chưa hề
thấy trong lịch sử quá khứ. Có người
hỏi v́ sao biến thành nông nỗi này? Trong kinh Phật
đă có câu trả lời: “Y
báo chuyển theo chánh báo”. Câu trả lời ấy
của đức Phật hay quá, đă làm sáng tỏ
mọi nghi vấn, lo âu của quư vị. V́ sao biến thành
nông nỗi ấy? [Y báo] chuyển theo chánh báo của quư
vị, chánh báo là ǵ? Ư niệm. Ư niệm của chúng ta
bất thiện, chẳng biết tu phước, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, không ǵ
chẳng phải là tội, giống như kinh Địa
Tạng đă dạy. Chúng ta tạo những ǵ th́ sẽ
hứng chịu những thứ ấy, chớ nên không
biết điều này! Không chỉ Nho, Thích, Đạo tại
Trung Quốc giảng đạo lư này, chúng ta quan sát cẩn
thận, gần như trong kinh điển của các
đại tôn giáo trên thế giới đều giảng
điều này. Thiện tâm, thiện hạnh sẽ có
thiện báo, tâm hạnh bất thiện sẽ mắc ác
báo. Đối với cá nhân, [ác báo] nhỏ là thân thể
chúng ta nhiễm bệnh, bị bệnh khổ, đó là
nhỏ; [ác báo] lớn sẽ biến thành tai nạn.
Nếu đại đa số người trong xă hội
tạo tác bất thiện, vấn đề sẽ nghiêm
trọng. Kẻ tạo tác bất thiện rất đông,
người thật sự hành thiện gần như t́m
không ra, vấn đề bèn nghiêm trọng.
Hiện thời, các nhà khoa
học đă đưa ra một thông tin, cho biết họ
đă phát hiện một số chân tướng trong vũ
trụ hiện tại. Chúng tôi đang mong sẽ có cách
chứng thực. Nếu [những thông tin ấy] là
thật, sẽ đem lại hy vọng rất lớn cho
chúng ta. Các nhà Lượng Tử Lực Học phát
hiện, theo phát hiện mới nhất [của họ] th́
những thứ được chúng ta gọi là “vật
chất” chẳng phải là vật chất thật sự.
Bản chất của vật chất là ǵ? Họ phát
hiện bản chất của vật chất là ư niệm
của con người, chúng là huyễn tướng do ư
niệm tích lũy liên tục sanh ra. Thông tin này hay lắm.
Nếu thông tin này là thật, chúng ta sẽ có thể hóa
giải các tai nạn trên địa cầu. V́ sao? Chúng do ư
niệm biến ra! Chúng ta biết điều này giống
như kinh Phật đă dạy, v́ sao y báo xảy ra
chuyện? Do ư niệm của chúng ta bất hảo, bất
thiện. Trong Phật pháp, thiện và ác có tiêu chuẩn
rất rơ ràng! Thập Ác là bất thiện, sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói
thêu dệt, tham lam, sân hận, ngu si, mười
điều ấy là bất thiện. Nếu chúng ta
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác
tương ứng với mười điều ấy,
đối với chính ḿnh mà nói, luận theo Trung Y, nếu
quư vị tương ứng với mười
điều ấy, Trung Y bảo quư vị đă làm hại
thân thể, tổn hoại đức hạnh của chính
ḿnh, thương thân, bại đức! Nếu
ngược lại, có thể tương ứng với
Thập Thiện, tức là chẳng trộm cắp,
chẳng sát sanh, quyết định chẳng có ư niệm
tổn thương, gây hại cho hết thảy chúng sanh.
Không chỉ là chẳng tổn thương, gây hại
động vật, mà c̣n phải yêu thương, che
chở chúng. Thực vật, hoa, cỏ, cây cối
đều phải yêu thương, che chở chúng. Núi, sông,
đại địa cũng đều phải yêu
thương, che chở. Phật môn dạy đối
tượng từ bi của chúng ta là mười
phương cơi nước, hiện thời, điều
này được gọi là “thế
giới vĩ mô”, khắp pháp giới hư không giới
chúng ta đều phải yêu thương, che chở. Câu
kế tiếp nói tới “vi
trần pháp giới”, các nhà Lượng Tử Lực
Học gọi chúng là “thế
giới vi mô”, phải dùng kính hiển vi cao cấp
để quan sát hiện tượng vật chất và
hiện tượng tinh thần. Quư vị thấy từ
thế giới vĩ mô đến thế giới vi mô,
chẳng có ǵ không yêu thương, che chở. Thập
Thiện trọn khắp pháp giới hư không giới,
thật sự đối đăi hết thảy chúng sanh
bằng từ bi, thật sự là thiện ư.
Chẳng trộm cắp:
Phải hành “chẳng trộm cắp” đến mức
quyết định chẳng có ư niệm chiếm tiện
nghi của người khác. Hễ nghĩ muốn chiếm
tiện nghi một chút, đó là cái tâm trộm cắp. Tuy
quư vị chưa có hành vi trộm cắp, nhưng đă có
tâm trộm cắp, chẳng tốt! Chẳng tà dâm,
chẳng vọng ngữ, có thể làm được hay
không? Dùng cái tâm chân thành để đăi người,
tiếp vật. Chẳng nói đôi chiều. Nói đôi
chiều là khêu động đúng - sai, tội ấy
rất nặng. Nói thêu dệt (ỷ ngữ) là hoa ngôn
xảo ngữ (ăn nói bóng bảy, ngọt ngào giả
dối), có ư niệm lừa gạt người khác, đó
là sai quấy! Ác khẩu là thốt lời thô lỗ,
khiến cho người khác nghe xong cảm thấy khó
chịu. Đừng nên có những điều này! Không tham,
không sân, không si; muốn làm được những
điều này đôi chút, phải thật sự hiểu
nhân quả. Người thật sự liễu giải
đạo lư nhân quả, sẽ tự nhiên có thể
ước thúc chính ḿnh. Sức mạnh ấy to hơn luân
lư, đạo đức và pháp luật. Nếu chẳng tin
nhân quả, sẽ như cổ nhân đă nói: Trong các t́nh
huống “danh cao, lợi trọng” sẽ biết rơ mà
cố phạm, vẫn phạm sai quấy, tạo tội
nghiệp. Thật vậy, từ lịch sử chúng ta
đă thấy, mà trong thế giới hiện tiền, chúng
ta c̣n thấy nhiều hơn nữa! Chúng tôi ở Tân Gia Ba,
ngụ tại khách sạn, ông chủ khách sạn đă
bảo chúng tôi: Nhân viên phục vụ của họ không
ổn định. Do nguyên nhân nào? Tân Gia Ba mở ṣng
bạc. Ṣng bạc tuyển người phục vụ, t́m
những người làm trong khách sạn, trả tiền
lương cho họ cao hơn một hai trăm
đồng, họ bèn bỏ đi hết. Chẳng
phải là lợi ích rất lớn! Cho quư vị một
chút lợi lộc nhỏ nhặt, quư vị liền bỏ
đi, giữa người và người chẳng có
đạo nghĩa, chẳng có t́nh cảm, chỉ mong
cầu lợi lộc, c̣n ǵ đáng sợ hơn? Chư
vị hăy suy nghĩ kỹ lưỡng, người như
vậy có ḷng ái quốc hay không? Mắt kẻ ấy
chỉ thấy lợi lộc, địch nhân cho hắn
một chút tiền, kẻ ấy liền làm Hán gian, sẽ gây tổn hại cho quốc
gia của chính ḿnh, kẻ ấy ham tiền mà! Gần
đây nhất, chúng ta thấy những chuyện này
phổ biến nhất, trong xă hội này, con người
chẳng có đạo nghĩa. Người thật sự
có đạo nghĩa th́ nhân công và chủ nhân một ḷng, có
nghĩa khí. Xí nghiệp của chủ nhân sắp phải
đóng cửa, nhân viên chẳng bỏ đi, không nỡ
ḷng nh́n chủ nhân gặp nạn, chẳng cần tiền
công vẫn làm việc tại đó. Vào thời cổ,
thường thấy chuyện như thế trong xă
hội, khiến cho người khác phải bội
phục những nhân công ấy. Nhân viên đối với
chủ là tri ân, báo ân.
Thời cổ, nhà kẻ phú quư
thuê người hầu, nhà ấy suy bại, người
hầu đều chẳng bỏ đi, v́ sao? Có cảm
t́nh, có nghĩa khí, chiếu cố đến cùng. Hiện
thời, trên thế giới này, chẳng có người
như vậy! Nói “kiến
lợi vong nghĩa” (thấy lợi quên mất nghĩa)
vẫn c̣n dễ nghe lắm! Về căn bản, kẻ
ấy chẳng có nghĩa, lấy ǵ để vong nghĩa?
Kẻ ấy chỉ biết có lợi, chẳng biết
đến nghĩa! V́ thế, luân lư chẳng c̣n, về
căn bản là không biết, bất hiếu với cha
mẹ, chẳng có tâm kính yêu cha mẹ. Trách móc cha mẹ:
“Cha mẹ chẳng kiếm được nhiều hơn
một chút để cho con”, thậm chí sát hại cha
mẹ, xă hội hiện thời là như vậy đó!
Bất kính tôn trưởng là hiện tượng phổ
biến trong xă hội hiện thời! Nguyên nhân khiến
cho xă hội động loạn cũng là do đă dạy
dỗ sai lầm. Dạy dỗ thế hệ kế tiếp
th́ trước tiên phải bắt đầu từ luân lư,
đạo đức, điều này trọng yếu
lắm; nhưng hiện thời, quư vị muốn dùng luân
lư, đạo đức để dạy thế hệ
kế tục nhất định sẽ gặp khó khăn.
V́ sao? Toàn thể xă hội chẳng có, một ḿnh nhà quư
vị nói đến luân lư, đạo đức, trẻ
nhỏ của quư vị ra khỏi cửa, những thứ
ấy (luân lư, đạo đức) là những thứ
đă cổ lỗ, không dùng được, trẻ có
thể tin tưởng hay chăng? Nó có thể tiếp
nhận hay chăng? Quư vị nói với người già
bảy tám mươi tuổi th́ được, họ
sẽ gật đầu, có lư lắm! Nhưng quư vị nói
với kẻ trẻ tuổi, họ lắc đầu,
chẳng tin tưởng. Do vậy, trong xă hội hiện
thực, chẳng có luân lư, đạo đức, nhân
quả, mà cũng chẳng có pháp luật. Pháp luật
quản trị người tốt, kẻ xấu t́m ṭi những
kẽ hở trong pháp luật, nên pháp luật biến thành
bảo vệ kẻ xấu. Đối với xă hội
hiện tiền, trước kia, Mao Chủ Tịch đă
nói là “vô pháp, vô thiên”, đúng
là như vậy. Vô pháp vô thiên đến t́nh trạng
ấy th́ trời cao phải can thiệp, vẫn phải
xen vào, chẳng thể mặc kệ được! “Trời”
ở đây là thiên nhiên, thiên nhiên đem lại bệnh
tật, tai nạn cho quư vị. Những bệnh tật và
tai nạn ấy đều do bản thân quư vị tự
làm, tự chịu, chẳng phải do ai khác giáng xuống
quư vị!
Chúng ta sát hại các chúng sanh,
trong Phật pháp đă nói tới lục đạo luân
hồi, [thật ra], chuyện này vốn chẳng phải
do Phật pháp nói, mà do Bà La Môn của Ấn Độ
cổ xưa đă nói, kinh Phật đồng ư với cách
nói đó: “Nhân tử vi
dương, dương tử vi nhân” (người
chết làm dê, dê chết làm người). Quư vị giết
con dê này, ăn thịt nó, dê chết đi, đầu thai,
lại sanh trong nhân gian, làm người. Nó đă chịu hết
tội nghiệp làm súc sanh, lại quay về nhân gian.
Người sát hại hết thảy chúng sanh, sau khi
chết bèn biến thành súc sanh, người đă chết
biến thành dê. Đời này, quư vị ăn nó, đời
sau nó ăn quư vị, oan oan tương báo, đời
đời kiếp kiếp chẳng xong, phiền toái quá! V́
vậy, trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta,
đối với những loài tiểu động vật,
trông thấy chúng nó phải sanh tâm thương xót. V́ sao
chúng nó phải đầu thai như thế? Trong quá
khứ, lúc làm người đă tạo tội nghiệp
quá nặng. Nếu sát hại sanh mạng quá nhiều,
sẽ hứng chịu quả báo như thế nào? Kinh
dạy, như con phù du trên mặt nước, tức là
loài trùng nhỏ chạy loăng quăng trên mặt
nước! Loài tiểu trùng ấy thọ mạng rất
ngắn, chỉ có mấy giờ, chết rồi lại
đầu thai, mỗi ngày đều phải sanh tử vài
lượt, chẳng biết đến đời nào
mới xong! Quư vị sát hại bao nhiêu chúng sanh th́ quư
vị phải sanh tử bấy nhiêu lượt, mới
ḥng trả hết nợ! Điều này vẫn chưa
thể coi là trả xong nợ, mà là tội nghiệp
của quư vị tiêu tan. Sau khi tội nghiệp tiêu tan th́
mới trả nợ xong. Kinh dạy: Quư vị ăn
kẻ khác nửa cân, phải đền trả kẻ
ấy tám lạng. Trả nợ mà! Nợ mạng th́
phải đền mạng. Thiếu tiền th́ phải
đền tiền. Quư vị nói xem có khổ lắm hay
không? Mê hoặc, điên đảo, chẳng có trí huệ,
làm chuyện ngu ngốc như thế, chớ nên làm!
Khi bất hạnh gặp
những tai nạn ấy xảy đến, chúng ta tuy
chẳng có tội mà bị chết trong tai nạn. Tai
nạn xảy ra, người tốt lẫn kẻ ác cùng
chết sạch, có người thấy vậy chẳng
phục: “V́ sao người ấy (người tốt)
mắc tai nạn ấy? Gă kia là kẻ xấu, chết là
đáng!” Luôn suy nghĩ theo kiểu ấy. Thật ra, đó
là xử sự theo t́nh cảm, chẳng biết chân
tướng. Chân tướng là ǵ? Cùng nhau gặp nạn là
cộng nghiệp, nhưng sau khi đă chết, sẽ
đến những nơi khác nhau! Người niệm
Phật gặp nạn qua đời, bèn đến thế
giới Cực Lạc, đó là chuyện tốt đẹp,
chẳng phải là chuyện xấu. Kẻ chẳng
học Phật, nhưng suốt đời hành thiện
tích đức, bị chết trong tai nạn, bèn sanh lên
trời. Người tu thiện tích phước ít hơn một
chút bèn quay lại nhân gian, lại đi đầu thai, sanh
trong gia đ́nh phú quư của nhân gian, nhất định
sẽ tốt đẹp hơn đời này, chẳng
phải là chuyện tốt đẹp ư? Kẻ tạo
tác ác nghiệp sanh trong tam ác đạo, rất công
bằng! Thật sự thấy rơ ràng, minh bạch, quư
vị mới thật sự tin tưởng nghiệp nhân
quả báo chẳng sai sót mảy may!
V́ lẽ đó, chúng ta nói
đến Thú Điền, tức là đối với
hết thảy chúng sanh, hết thảy súc sanh, cây cối,
hoa cỏ, núi, sông, đại địa, đều
phải dùng tâm từ bi để đối đăi.
Khổ Điền là gặp kẻ bần cùng, chúng ta toàn
tâm toàn lực giúp đỡ, trọng yếu nhất là
phải dạy bảo người ấy. Nghèo khổ
về mặt vật chất chẳng kể là nghèo khổ
thật sự, nghèo khổ thật sự là ǵ? Chẳng có
trí huệ, chẳng có văn hóa, đó là nghèo khổ
thật sự. Chưa từng tiếp nhận giáo huấn
của thánh hiền, kẻ ấy vô tri, đó là nghèo
khổ thật sự! Kẻ có cuộc sống vật
chất khốn khổ, nếu tiếp nhận giáo dục
của thánh hiền sẽ chẳng khổ, sẽ rất
sung sướng. Nếu kẻ ấy học Phật,
sẽ càng vui sướng hơn. Kẻ ấy có mong
mỏi cuộc sống vật chất được
cải thiện hay không? Chẳng mong mỏi, v́ sao? Ta
sống rất vui sướng, cần ǵ phải t́m phiền phức! Người thật
sự học Phật, nhất định nghe theo giáo
huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật, lấy giới làm
thầy, lấy khổ làm thầy. Người ấy
sẽ hết sức tuân thủ giáo huấn của
đức Phật, thực hiện Đệ Tử Quy,
thực hiện Cảm Ứng Thiên, thực hiện
Thập Thiện Đạo, thảy đều làm
được. Dẫu phải làm kẻ ăn mày,
người ấy vẫn rất sung sướng,
chẳng mong mỏi cải thiện cuộc sống.
Thật đấy, chẳng giả đâu! V́ sao?
Người ấy chẳng có dục vọng. Càng học
Phật càng thâm nhập, dục vọng bèn giảm
xuống, giảm đến mức chẳng c̣n dục
vọng, có thể giống như Thích Ca Mâu Ni Phật,
giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới
cội cây, đó là cuộc sống của kẻ ăn mày!
Năm xưa, khi tôi mới
xuất gia, thọ giới, Giới ḥa thượng (vị
ḥa thượng truyền giới) của chúng tôi là lăo pháp
sư Đạo Nguyên. Khi thọ giới, Ngài có kể
một câu chuyện, chuyện thật, chẳng giả.
Ở quê Ngài, h́nh như Ngài là người vùng Dương
Châu, trong thời ấy, lúc Ngài c̣n bé, có một người
ăn mày, quanh năm xin ăn bên ngoài. Buổi tối ở
trong một ngôi miếu hoang, hoặc bất cứ chỗ
nào có thể đánh một giấc là được
rồi. Ban ngày đi khắp nơi du sơn ngoạn
thủy, tới chỗ nào xin được một bát
cơm lót dạ, người ấy rất vui sướng.
Con cái của người ấy làm ăn phát đạt,
nên rất nhiều người chửi bới họ: “Cái
đồ bất hiếu! Coi bọn ngươi giàu có
như vậy, khá giả như thế, sao lại
để cho cha phải đi ăn mày?” Đứa con
ấy cũng rất mất thể diện, sai rất
nhiều người đi khắp nơi kiếm cha về,
xếp đặt chu đáo để cha ở yên trong nhà
ḥng phụng dưỡng. Cha anh ta chẳng quen với
cuộc sống ấy, ước chừng ở trong nhà hơn
một tháng, thấy người nhà canh chừng lơi
lỏng một chút liền trốn mất, lại đi
xin ăn. Người khác hỏi ông ta v́ sao? Vui
sướng! Đó chẳng phải là người tầm
thường. Quả thật, xin ăn thật là tốt,
tấm thân thứ ǵ cũng chẳng có, cũng không sợ
cường đạo cướp bóc, cũng chẳng sợ
kẻ cắp vặt trộm cắp, ông ta thứ ǵ
cũng chẳng có. Mỗi ngày du sơn ngoạn thủy,
quư vị thấy [đối với ông ta] có cái ăn, có
chỗ nghỉ ngơi [là được rồi], thật
tự tại! Lăo ḥa thượng kể cho chúng tôi nghe câu
chuyện này. Cuộc sống thật sự hạnh phúc
mỹ măn là cuộc sống sung sướng, không nhất
định phải có tiền, cũng không nhất
định phải có địa vị. Lăo pháp sư nói
người ăn mày ấy thật sự hiểu nhân sinh,
thật sự hiểu hạnh phúc mỹ măn. Ông ta có cơ
hội, con cái phát tài lớn, ông ta có thể hưởng
một chút phước, nhưng không cần. Ông ta nói đó
chẳng phải là phước, mà là khổ, chẳng
phải là niềm sung sướng. Thân thể vẫn c̣n
khỏe mạnh, quư vị thấy ông ta mỗi ngày du
sơn ngoạn thủy thật vui sướng, t́m mấy
người ăn mày làm bạn, lẽ nào chẳng vui
sướng?
V́ thế, truyền đạo
quan trọng hơn bất cứ điều ǵ khác. Giúp cho
người ta một chút vật chất, tặng cho
họ một chút, nhưng truyền đạo cho
người ấy quan trọng hơn bất cứ
điều ǵ khác. Phật pháp thật sự lợi ích
chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, đó là đúng.
Nhất định phải chỉ dạy họ diệt
trừ cội rễ bần cùng, dẫu bần cùng,
trắng tay đến mấy, vẫn phải biết
bố thí. Thật sự chẳng có tiền để
bố thí, th́ hăy làm công quả trong các đạo tràng
như của chúng ta, đó là tài bố thí, được
gọi là Nội Tài Bố Thí. Ta đến làm công quả,
chẳng cần đến tiền, phục vụ
đạo tràng, dùng thân thể của chính ḿnh để
bố thí; đó là Nội Tài. Nội Tài bố thí c̣n
đạt được quả báo nhiều hơn
Ngoại Tài. Ngoại Tài là quư vị bỏ tiền, dùng
vật chất, tiền bạc để cúng dường,
nhưng chẳng đích thân đến phục vụ. V́ thế,
chúng ta hiểu, suốt một đời Thích Ca Mâu Ni
Phật có tài bố thí hay không? Có, Ngài dùng thân thể,
thời gian và trí huệ của chính ḿnh để giáo hóa
chúng sanh hằng ngày, đó là Tài Bố Thí. Bao nhiêu
người được lợi ích! Sau khi học tṛ
học thành tài, bèn hoằng dương rộng răi, rạng
rỡ sự nghiệp lợi ích chúng sanh của thầy,
lần lượt giáo hóa. Người đă giác ngộ bèn
bằng ḷng đi theo con đường ấy. Chúng tôi
chẳng nhận biết, tức là chẳng mảy may
nhận biết Phật giáo, thuở trẻ, nếu quư
vị bảo tôi đi xuất gia, bảo tôi làm chuyện
này, tôi thà chết chẳng chịu làm, lẽ đâu có
thể làm chuyện như thế được? Cả
một đời này tôi chẳng nghĩ sẽ làm
chuyện như thế!
Tôi theo học Triết Học với
tiên sinh Phương Đông Mỹ, phần cuối cùng trong
Triết Học Khái Luận là “triết học trong kinh
Phật”, tôi mới thật sự có nhận thức
mới mẻ về Phật giáo, mới thật sự liễu
giải Phật giáo chẳng phải là tôn giáo. Nhưng
hiện thời, Phật giáo đă biến thành tôn giáo, nó
xác thực chẳng phải là tôn giáo, mà là giáo dục.
Thầy dạy tôi, kinh điển nhà Phật là triết
học cao cấp. Tôi nhập môn từ chỗ ấy,
học suốt năm mươi chín năm, sang năm là
tṛn một giáp tư (sáu mươi năm), càng học càng hoan
hỷ. Gặp gỡ Chương Gia đại sư, lúc
đó tôi một thân trơ trọi ở Đài Loan,
chẳng có bất cứ vướng mắc ǵ. Thầy
khuyên tôi xuất gia, dạy tôi hăy học theo Thích Ca Mâu Ni
Phật. Thầy hết sức yêu thương tôi, chúng tôi
hết sức tôn kính thầy, tiếp nhận ư thầy,
nghe lời, đi theo con đường này. Con đường
này là nối tiếp huệ mạng của Phật,
hiến thân giúp cho chánh pháp trụ thế lâu dài, là
chuyện tốt đẹp, là sự nghiệp to lớn,
là chuyện tốt lành. Đi theo con đường này
năm mươi chín năm, cũng chẳng phải là
thuận buồm xuôi gió, thử thách cũng rất
nhiều, nhưng vui sướng khôn sánh, dẫu gặp
phải thử thách, vẫn rất sung sướng. V́ sao?
Hiểu rơ ràng, rành rẽ nghiệp nhân quả báo, hiểu
rơ rệt v́ sao mỗi lần có thử thách. Hằng ngày
giảng kinh, hằng ngày đọc tụng, năm
mươi chín năm chẳng hề gián đoạn. Quư
vị nói xem có vui sướng, hạnh phúc lắm hay không?
Chúng tôi sử dụng Internet [để hoằng pháp]
khoảng chừng mười lăm năm, sử dụng
Internet khá sớm, sử dụng [truyền h́nh] vệ tinh
cũng đă tám năm rồi, từ ngày Nguyên Đán
năm 2003 bắt đầu sử dụng vệ tinh.
Những công cụ này phát huy tác dụng rất lớn, v́
chúng tôi giảng kinh và học tập tại nơi đây,
đồng thời phát sóng, toàn cầu có thể thấy và
thu được. Giáo pháp Đại Thừa thường
nói: “Phật độ kẻ
hữu duyên”, những ai hữu duyên? Những
người mở TV chọn đúng băng tần này
đều là người hữu duyên. Họ dùng computer
kiếm được địa chỉ trang nhà của
chúng ta, đó là người hữu duyên. Người
tiếp sóng, xem chương tŕnh rất nhiều. Do
vậy, giúp đỡ hết thảy chúng sanh, nghèo, giàu,
sang, hèn, đều phải giúp đỡ họ.
“Ân
điền” là cha mẹ. Trong Phật pháp c̣n có hộ
pháp. Hộ pháp có ân với chúng ta. Nếu chẳng có
nhiều người hộ tŕ như thế, chẳng có
đông người giúp đỡ ngần ấy, chúng ta
phát triển hết sức khó khăn. Phật pháp có
thể truyền thừa hay không, chánh pháp có thể trụ
thế lâu dài hay không, mấu chốt chẳng do ta, v́ ta
chẳng có cách nào, mà ở nơi đâu? Nơi hộ pháp.
Do vậy, công đức của người hộ pháp
lớn hơn công đức của người hoằng
pháp. Người hoằng pháp giống như giáo viên trong
trường học, hộ pháp là hiệu trưởng. Ông
ta tạo lập một đạo tràng ở đây,
nếu chẳng mời quư vị, quư vị sẽ chẳng
có cơ hội đến đây dạy học. Do ông ta
bằng ḷng mời quư vị đến, nên quư vị có
thể dạy một thời gian ở nơi đây,
dạy một hai môn, đó là ân đức của họ.
Mọi người nghe pháp ở nơi này, đạt
được lợi ích nơi Phật pháp, là nhờ ai mà
đạt được? Nhờ hộ pháp tạo
lợi ích, phải biết điều này. Người
xuất gia là Trụ Tŕ tự miếu, người tại
gia là các vị cư sĩ chủ tŕ đạo tràng,
như ở Mă Lai có nhiều vị hội trưởng
Tịnh Tông Học Hội, Phật pháp có thể hưng
vượng hay không ở nơi ấy là trách nhiệm
của họ. Họ có kiến thức, liễu giải
Phật pháp hưng hay suy, bồi dưỡng pháp sư giảng
kinh, lễ thỉnh pháp sư giảng kinh đến đó
giáo học hay giảng kinh, công đức thuộc về
họ. Giống như quản lư trường học,
điều hành trường học rất khá, chánh phủ
khen thưởng th́ sẽ khen thưởng ai? Khen
thưởng hiệu trưởng, chẳng khen
thưởng giáo viên. Trường học hoạt
động lôi thôi, phải bị trừng phạt th́
hiệu trưởng bị trừng phạt, cũng
chẳng phải là giáo viên. Do vậy, những người
giảng kinh, bất luận xuất gia hay tại gia,
đều có thân phận là giáo viên, phải hiểu rơ ràng,
minh bạch điều này. Không ai mời mọc, th́ làm
như thế nào? Nói Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập Bát
Niết Bàn, đă đi rồi, văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới, chẳng c̣n ở trong
thế giới này nữa. Do không ai cầu thỉnh, nên Ngài
đă đi rồi. Có người cầu thỉnh tức
là hữu duyên, trụ thêm mấy năm nữa, chẳng
trở ngại. Chẳng có duyên bèn lập tức ra đi,
chẳng lưu luyến thế giới này. Người làm
giáo viên tự tại dường ấy, có nơi nào cần đến đó dạy
ḥng giúp đỡ chúng sanh khổ nạn th́ đại
từ đại bi [đến đó giáo hóa]. Chẳng có
chỗ nào để dạy bèn ra đi, văng sanh thế
giới Cực Lạc ḥng thân cận A Di Đà Phật,
bản lănh sâu xa. V́ thế, biết ân, báo ân, những
vị hộ pháp đều có ân đức, giống
như cha mẹ, phải tôn trọng họ!
Thứ tư là “đức điền”, đức điền là
Tam Bảo, “tam thừa hiền
thánh”. Bất luận A La Hán, hay Bích Chi Phật, hoặc
là Bồ Tát, bất luận tại gia hay xuất gia,
đại đa số là người chủ tŕ
đạo tràng. V́ lẽ đó, Phật pháp có thể
hưng vượng, xă hội có thể an định,
quốc gia có thể vững bền dài lâu, thế giới
có thể ḥa b́nh, tam thừa thánh hiền có cống hiến
to lớn, họ là những vị phụ trách đạo
tràng. Điều thứ nhất là họ có thể lễ
thỉnh những vị đại đức hữu tu
hữu học, bất luận tại gia hay xuất gia,
mời các vị ấy đến nơi ấy giảng
kinh, giáo học, đó là chuyện thuộc về bổn
phận của họ. Đồng thời, nếu
những người ấy c̣n có thể tiến thêm
bước nữa, chẳng phải chỉ là cần
dạy học, mà c̣n muốn bồi dưỡng nhân tài
kế tục, công đức của những người
ấy sẽ thật to lớn, thật sự cứu văn
Phật giáo. Như vậy có cần mở trường
học hay không? Không nhất định. Thật sự phát
hiện người tuổi trẻ chịu học
hỏi, nhất định trước hết phải vun
bồi tốt đẹp ba căn bản, tức là
cũng giống như Khổng lăo phu tử, dạy dỗ
đức hạnh trước hết. Quư vị thật
sự có thể thực hiện Đệ Tử Quy và
Cảm Ứng Thiên. Đệ Tử Quy gồm một
trăm mười ba điều, Cảm Ứng Thiên là
một trăm chín mươi lăm điều, quư vị
đều có thể làm được, sau đấy
sẽ thực hiện Thập Thiện Nghiệp
Đạo rất dễ dàng. Nếu là xuất gia, phải
hành mười giới trong Sa Di Luật Nghi, hai mươi
bốn môn oai nghi cũng phải thực hiện, nhưng
chẳng có khó khăn ǵ, do trước đó, quư vị
đă có căn bản đức hạnh tốt đẹp.
Sau khi đức hạnh đă có căn bản, quư vị
có thể chọn lựa một bộ kinh, thâm nhập
một môn, thật sự có người hộ tŕ khiến
cho quư vị thân tâm yên ổn, chẳng có ưu lự. Cúng
dường quư vị áo, cơm, chỗ ở là
được rồi, quư vị có chỗ cư trú an
định, áo cơm được chiếu cố
rất chu đáo là được rồi, chính ḿnh hằng
ngày dụng công. Một người tu hành th́ một căn
pḥng nhỏ là được rồi.
Trong quá khứ, Hàn quán
trưởng chiếu cố tôi. Tôi ở trong một
căn pḥng nhỏ tại nhà bà ta, ở nhà bà ta suốt
mười bảy năm, chẳng dễ dàng! Mỗi ngày,
chuyện của tôi là đọc kinh, giảng kinh. Cơ
sở giảng kinh và thính chúng đều do bà ta thay tôi lo
liệu, v́ tôi tuổi trẻ, vừa mới ra giảng
kinh, ai nhận biết quư vị? Ai đến nghe quư
vị giảng? V́ thế, Hàn quán trưởng đi
khắp nơi lo liệu, mời mọc các bạn bè,
đạo hữu của bà [đến nghe], có khi là
mười mấy người, có lúc hai mươi mấy
người. Sau này, khi tôi giảng kinh thông thường
gần như là năm, sáu mươi người nghe,
chẳng gián đoạn. Mỗi tối giảng từ
một tiếng đến một tiếng rưỡi,
thông thường đa số là một tiếng
rưỡi. Buổi tối giảng một tiếng
rưỡi, thời gian ban ngày tôi dùng để đọc
kinh, niệm Phật. Quư vị thấy đó là một tấm
gương tốt đẹp, một vị cư sĩ,
trong nhà tương đối khá giả, có nhiều pḥng
bèn dành ra [một pḥng], quư vị chiếu cố một
người, có thể chiếu cố mười năm
th́ người [xuất gia] ấy bèn thành công. Tôi ở
trong nhà Hàn quán trưởng mười bảy năm.
Về sau, thính chúng đông hơn, mọi người
bỏ ra một ít tiền, mua một giảng
đường. Giảng đường ấy gần
như to bằng cái studio này. Mua một giảng
đường như thế, chẳng cần mượn
giảng đường nữa. Chính ḿnh có một
giảng đường như vậy, chúng tôi có nhiều
thời gian giảng kinh hơn. Buổi sáng giảng,
buổi chiều giảng, buổi tối giảng, vui
sướng chẳng mệt. Giảng các kinh khác nhau, nên
mỗi ngày giảng ba lần, thính chúng trong ba lần khác
nhau, giống như mở lớp vậy, quư vị có
thể dành ra thời gian đến nghe. Tôi đă từng
có lúc giảng nhiều nhất, mỗi tuần giảng
năm sáu loại [kinh luận khác nhau]. Tôi giảng kinh là do
học với thầy Lư ở Đài Trung. Hiện
thời, bồi dưỡng người giảng kinh
thuận tiện rất nhiều. Tôi giảng kinh nhiều
năm như thế, lưu lại băng ghi h́nh, ghi âm,
đại khái là từ một vạn năm ngàn giờ
trở lên, chẳng ít hơn một vạn năm ngàn
giờ. Chủng loại cũng rất nhiều, chỉ
cần chọn trong đó một thứ, thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, thật sự có thể khổ
học một loại trong mười năm, quư vị
sẽ thành công. Lúc đó, người ấy xuất gia
sẽ là đại pháp sư, tại gia cũng là
đại cư sĩ. Người thật sự có tâm
bồi dưỡng một, hai người [như
vậy], công đức vô lượng vô biên, đó là chân
thật. Bất quá, người như vậy cũng
rất khó t́m, ai chịu buông xuống muôn duyên, bỏ ra
mười năm quạnh quẽ, sau đấy mới
thi đỗ thành danh? Bởi vậy, phương pháp th́
có, mà cũng hoàn toàn chẳng khó khăn, nhưng khó t́m
người! Thật sự t́m được, hy sinh
phụng hiến, v́ chánh pháp tồn tại lâu dài, v́ kế
thừa gia nghiệp của Như Lai. Đó là phước
điền hiểu theo nghĩa rộng, thật sự tu
phước.
Trong phần trước, “điều chúng sanh, tuyên
diệu lư” là giúp người khác giác ngộ. Sau khi giác
ngộ, sẽ dạy người ấy tích công
đức, tu phước điền. Có trí huệ, có
phước báo, sau đấy phải cứu khổ,
cứu nạn, chẳng phải là quư vị hưởng
phước mà là cứu khổ, cứu nạn. “Dĩ chư pháp dược,
cứu liệu tam khổ” (dùng các pháp dược,
cứu chữa ba nỗi khổ), đó là độ chúng
sanh. Chư Phật, Bồ Tát vĩnh viễn chẳng
hề hưởng phước, hưởng lạc,
chẳng có! Quư vị thấy trong Phật môn từ xưa
đến nay, những vị cao tăng đại
đức có hưởng phước hay không? Đối
với các Ngài, giáo học là hưởng phước.
Dẫu địa vị cao tới đâu
đi nữa, trước kia, làm đến Quốc Sư,
hoàng đế tôn vị ấy làm thầy, [nên gọi là]
Quốc Sư, cuộc sống vẫn rất đơn
giản, chẳng hề thay đổi. Những vị tu
hành ấy quá nửa là ăn giữa Ngọ, rất
nhiều! Cuộc sống hết sức đơn
giản, v́ sao? Nêu gương cho người khác, mảy
may ngạo mạn đều chẳng có! Chẳng phải
là địa vị rất cao, bèn ngự cao chót vót,
chẳng phải vậy, vẫn tiếp xúc với
người nghèo khổ y như cũ, [những vị hành
xử như vậy] rất nhiều, đấy là
đức hạnh. Đối với bậc đại
quan, nói theo cách bây giờ là những người thuộc
tầng lớp cao trong xă hội, tiếp xúc họ bèn dùng
trí huệ giúp họ cai trị quốc gia, qua lại
với người bần cùng để giúp họ ĺa
khổ được vui, b́nh đẳng giáo hóa. Đối
với tam thừa hiền thánh, tam giáo, cửu lưu, hoàn
toàn b́nh đẳng, các Ngài chẳng có phân biệt và
chấp trước.
V́ vậy, tiếp đó là
lời chú giải như sau: “Chư
Phật độ sanh, ứng bệnh dữ dược”
(chư Phật độ chúng sanh, cho thuốc phù hợp
chứng bệnh), giống như thầy thuốc chữa
bệnh. Người ấy mắc bệnh ǵ, cần dùng
thuốc ǵ để chữa trị, bèn cho thuốc
đúng với căn bệnh. “Dược
dụ Như Lai diệu pháp, bệnh dụ chúng sanh tật
khổ” (thuốc ví như diệu pháp của Như Lai,
bệnh ví như chúng sanh đau khổ). Thưa cùng quư
vị, trong hiện thời, diệu pháp của Như Lai có
thể chữa trị xă hội. Tuy tất cả hết
thảy mọi người mắc bệnh khác nhau,
nhưng thuốc một vị có thể giải quyết,
đó là “phổ thế giáo
dục” (giáo dục trọn khắp cơi đời).
Phổ (普)
là phổ biến, Thế (世) là thế giới, trọn khắp
người đời phải nên tiếp nhận sự
giáo dục ấy, tức là giáo dục luân lư, giáo dục
đạo đức, giáo dục nhân quả. V́ sao?
Những nỗi phiền phức xuất hiện trên
cả thế giới hiện thời đều v́
thiếu những thứ giáo dục ấy. Vào thời
cổ th́ có, tại Trung Quốc có, mà ở ngoại
quốc, các thứ giáo dục tôn giáo cũng
được, đều có thể đạt hiệu
quả. Hiện thời, tại Trung Quốc, nền giáo
dục ấy không được chú trọng, coi
thường, bỏ sót, ngoại quốc th́ đang dần
dần theo đuổi, đề cao khoa học,
người tin tưởng tôn giáo ngày càng ít ỏi. Xă
hội tôn sùng dục vọng, lợi lộc, nhiều nhân
sĩ tôn giáo cũng bị dục vọng, lợi lộc
nuốt chửng, đó là hiện tượng thấy rơ
trước mắt. Họ cũng tranh danh trục lợi,
gạt giáo dục tôn giáo sang một bên, chẳng c̣n học
tập nữa. Đó là nhân tố khiến cho xă hội
hiện tiền động loạn, mà cũng là nguyên nhân
khiến cho địa cầu đổi khác. Nay chúng ta
cứu văn xă hội, cứu vớt địa cầu,
phải t́m lại những thứ ấy, khuyên dạy
mọi người hăy khéo làm người, [nguyên nhân] toàn là
do trong chuyện làm người đă xuất hiện
vấn đề, liên lụy y báo là địa cầu
của chúng ta cũng xuất hiện vấn đề.
Tại Trung Quốc là giáo
dục Nho, Thích, Đạo, tại ngoại quốc là giáo
dục tôn giáo, thật sự có thể giúp chúng ta giải
quyết vấn đề này. Nhưng trong hiện
thời, bất luận tại Trung Quốc hay ngoại
quốc, bậc đại đức thật sự quá ít,
chúng ta hăy nên biết tôn trọng và bồi dưỡng
như thế nào. Đây là một chuyện khó khăn, hăy
nên ghi nhớ chuyện này trong ḷng, hễ gặp duyên
phận, có người như vậy, chúng ta phải quan
tâm, chiếu cố, giúp đỡ, thành tựu người
ấy. V́ thế, trong hiện tại, nếu chẳng có
thầy chỉ dạy, nhưng thật sự có
người như vậy, vun bồi vững vàng ba
hoặc bốn căn cội, đó là cơ sở,
nhất định yêu cầu người ấy phải
làm được. Làm một năm! Chưa làm tṛn một
năm, sẽ chẳng hộ tŕ người ấy,
mời người ấy đi chỗ khác! Nếu trong
một năm, [người ấy] thật sự làm
được, chúng ta càng thêm lễ kính, đốc thúc
người ấy. Phương pháp đốc thúc rất
đơn giản: “Mỗi ngày hăy giảng cho chúng tôi nghe
một tiếng rưỡi”, giảng
cho ai nghe? Giảng cho quư vị nghe, chẳng cần có ai
khác. Hoặc là người nhà của quư vị, cách mấy
tuần họp lại, giảng cho quư vị nghe. Hằng ngày
buộc người ấy phải học, mỗi ngày
buộc người ấy phải giảng. Học
mười năm, giảng mười năm, chẳng
phải là đă thành tựu hay sao? Sau mười
năm, sẽ đem người ấy giới thiệu
với bên ngoài, t́m giảng đường để công
khai giảng diễn bên ngoài, nhưng chưa đầy
mười năm sẽ chẳng giảng bên ngoài. Đó là
huấn luyện ǵ? Huấn luyện Nhẫn Nhục Ba La
Mật cho người ấy. Người ấy dẫu có
thông hiểu vẫn phải nhẫn nại mười
năm. Nếu người ấy chẳng thể chịu
đựng, đi ra ngoài giảng, giảng cũng khá
lắm, kẻ cung kính người ấy đông
đảo, kẻ cúng dường đông đúc,
người ấy sẽ bị sảy chân, biến
chất! Lại sa vào danh lợi, tức là chúng ta đă sai
rồi! Do vậy, phải quan sát người ấy,
thật sự có thể chịu khổ, thật sự có
cảm giác gánh vác sứ mạng th́ mới có thể thành
tựu.
Như kinh Niết Bàn đă
dạy: “Độ chúng sanh
cố, vị thuyết vô thượng vi diệu pháp
dược” (v́ độ chúng sanh mà giảng cho họ
các pháp dược vô thượng vi diệu). Nói theo cách
hiện thời, Độ (度) là giúp chúng sanh, góp sức cho chúng sanh.
Chúng sanh có khổ, bị nạn, chúng ta phải giúp họ,
tức là giới thiệu cho họ diệu pháp vô
thượng rất sâu. Vô thượng vi diệu pháp
dược là ǵ? Chính là bộ kinh này, bộ kinh này là vô
thượng vi diệu pháp được đúng tiêu
chuẩn. Như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Bát Nhă
đều là đại kinh đại luận vô
thượng vi diệu, có người chỉ dạy th́
chẳng có vấn đề ǵ, có thể học tập,
nhưng nếu chẳng có ai chỉ dạy, sẽ hết
sức khó khăn. Không ai chỉ dạy th́ chúng ta làm như
thế nào? Chúng ta chọn bộ kinh này, kinh này được
lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập tốt
đẹp, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải
cặn kẽ, tạo thuận tiện cho chúng ta. Hai vị
ấy đều là người cận đại; do
đó, chúng tôi phát tâm giảng bản Chú
Giải của lăo cư sĩ một lượt, coi
như tôi báo ân cụ. Lúc cụ tại thế, chúng tôi là
bạn già, hằng năm tôi sang Bắc Kinh đôi ba
lượt để thăm cụ. Cụ khuất bóng,
bạn già ở Bắc Kinh chẳng c̣n nữa, nên tôi không
sang đó. Thuở trước, tôi siêng năng, lẹ làng
sang đó, v́ lẽ nào? Do có vị lăo hữu ấy, chí
đồng đạo hợp. Hoằng dương bản
hội tập này, tức bản hội tập của lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư, tại hải ngoại
một ḿnh tôi, trong nước là một ḿnh cụ Hoàng.
Trong ngoài nước cũng chẳng có kẻ thứ
hai giảng bộ kinh này, chúng tôi được gặp
gỡ, đúng là khó có! Ở Mỹ, chúng tôi mới liên
lạc với nhau. Cụ ở Mỹ một tháng, chúng tôi
mới [có cơ hội] quen biết. Sau này, cụ chẳng
tiện xuất ngoại, c̣n chúng tôi trở về Trung
Quốc thăm viếng khá thuận tiện, nên tôi
thường đến thăm cụ. Cụ viết
bộ chú giải này chẳng đơn giản, hy vọng
bộ kinh này và bản chú giải này có thể lưu
truyền đến chín ngàn năm sau trong thời Mạt
Pháp. Trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, các
đồng học Tịnh Tông sẽ nương theo pháp
môn này mà đắc độ, chúng ta có thể tin
tưởng, có ḷng tin như vậy. Lần này, do gặp
phải tai nạn nhiều ngần ấy, tôi ngưng
giảng kinh Hoa Nghiêm. Giảng viên măn bộ kinh này, tôi
lại giảng tiếp kinh Hoa Nghiêm, hy
vọng bộ Diễn Nghĩa này sớm có ngày
được lưu thông. Diễn Nghĩa là chú giải
của chú giải. Năm xưa, tôi có soạn một
bản khoa phán cho bản hội tập này. Bản ấy
là phần khoa hội và mi chú của kinh Đại
Thừa Vô Lượng Thọ, lời mi chú do lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam chú giải. Thuở ấy, lăo cư
sĩ Triệu Phác Sơ c̣n sống, cụ là đồng
hương của tôi[1],
và cũng là bậc trưởng bối, đối xử
với tôi vô cùng tốt. V́ thế, mỗi lần sang
Bắc Kinh, chúng tôi nhất định đều gặp
nhau. Những vị lăo nhân này đều đă khuất, tôi
cũng trở nên đặc biệt cô đơn. Sau khi
soạn xong Khoa Phán, tôi tặng cho cụ Triệu Phác Sơ
một bản, cụ trông thấy vô cùng hoan hỷ,
bảo: “Bản này hay lắm,
một bản hội tập hay như thế, có Khoa Phán hoàn
chỉnh như thế, lại c̣n có bản chú giải
của cụ Niệm Tổ, người học tập
sau này quá thuận tiện”. Vô thượng vi diệu
pháp dược chính là nói đến bộ kinh này và bản
chú giải này!
Tiếp đó, lại giảng
về Tam Khổ: “Tam Khổ
giả, nhất, Khổ Khổ, do khổ sự chi thành,
nhi sanh khổ năo giả” (Tam Khổ: Một là Khổ
Khổ, do chuyện khổ tạo thành, bèn sanh khổ năo).
Đối với chuyện khổ, trong kinh đức
Phật dạy Bát Khổ, trước hết là bốn
thứ Sanh, Lăo, Bệnh, Tử. Sanh, Lăo, Bệnh, Tử
mỗi cá nhân đều chẳng thể tránh
được, nhưng chúng ta quên hết Sanh Khổ. Khi
quư vị được sanh ra, khổ lắm, mẹ sanh
quư vị ra. Nếu chúng ta đă quên hết th́ cũng
chẳng có cách nào thấu hiểu, nhưng quư vị có
thể chú tâm quan sát trẻ nhỏ sanh ra là như thế
nào? Sanh ra bèn đau khổ. V́ sao trẻ nhỏ khóc? Khổ!
Khổ quá nên nó mới khóc, quư vị thấy có đứa
trẻ nào sanh ra bèn cười ha hả hay không? [Nếu
cười], tức là nó chẳng khổ, đă vui
sướng rồi! Quư vị biết lúc sanh ra, trong kinh
Phật đă nói: “Như phong
đao giải thể” (như bị đao gió xẻ
thân). Khi nó rời khỏi thân mẹ, thân thể nó da
thịt non nớt, cảm thấy gió thổi vào giống
như bị đao cắt. Do đó, nó khổ sở,
đau khổ, từ từ mới thích ứng. Đó là
Sanh Khổ. Lăo Khổ, quư vị vẫn chưa già, nhưng
thấy người già, mắt đă quáng, tai đă lăng, làm
ǵ cũng chẳng thuận tiện. Nếu chẳng có ai
chăm sóc, quư vị biết người ấy tuổi già
đáng thương lắm. Tôi hết sức quan tâm chuyện
này, tôi đến khá nhiều nơi trên các quốc gia,
mỗi khi đến một nơi nào, điều thứ
nhất tôi muốn thấy là sự nghiệp phước
lợi dành cho người già ở nơi ấy. Tôi
đến tham quan sự nghiệp phước lợi dành
cho người già của họ, tức là viện
dưỡng lăo. Có những quốc gia khá lắm, quốc
gia nuôi dưỡng người già, nước Mỹ
đứng đầu về chuyện này. Xưa kia,
Mỹ có tiền, là giàu nhất trên toàn thế giới. Họ
nêu gương, cũng có không ít quốc gia học theo.
Hiện thời, Mỹ đă nghèo, sự nghiệp
phước lợi người già là một gánh rất
nặng đối với họ, nhưng họ cũng
chẳng thể phế trừ. Nếu phế trừ, dân
chúng sẽ không bỏ phiếu cho họ nữa, không có ai
dám phế trừ, nên chuyện này vẫn tiếp tục
kéo dài.
Theo như tôi thấy, Úc Châu
thực hiện sự nghiệp phước lợi cho
người già tốt nhất trên cả thế giới.
Chủ yếu là v́ đất Úc Châu quá to, đất
đai chẳng đắt đỏ, cho nên dưỡng lăo
tại Úc quả thật giống như sống trong công
viên. Những quốc gia khác trên thế giới chẳng
thể sánh bằng hoàn cảnh vật chất ấy. V́
sao? Đất đai chẳng đắt đỏ, mua
đất rất dễ dàng, các thiết bị vô cùng
tốt đẹp. Thuế tại Úc rất nặng,
nhưng chính phủ chăm sóc dân chúng rất chu đáo,
thật sự làm được việc. Nhưng điều
thiếu sót là cuộc sống tinh thần, đời
sống tinh thần của người già rất đáng
thương. Xem kỹ những người già, tán
chuyện gẫu với họ, họ hết sức hoan
hỷ, [do thường là] không có ai nói chuyện phiếm
với họ. Nhất là sống tại đó, các sắc
dân khác biệt, quốc tịch khác nhau, ngôn ngữ văn
hóa, thói quen ẩm thực đều khác nhau, nên rất
khổ năo. Sau khi chúng tôi thấy vậy, bèn suy nghĩ: Trong
viện dưỡng lăo, từ viện trưởng cho
đến tất cả nhân viên dưới quyền,
nếu đều có thể tiếp nhận văn hóa và
giáo dục hiếu đạo của Trung Quốc,
đối đăi với những cụ già ấy như
cha mẹ của chính ḿnh, có tâm hiếu kính, th́ do công
đức đă tích tập của nhóm người ấy,
trong tương lai, ai nấy đều sanh về thiên
đường, tích lũy công đức to lớn mà!
Người b́nh phàm tu phước chẳng dễ dàng, nhưng
phục vụ tại viện dưỡng lăo, tu
phước rất dễ dàng, coi người già như cha
mẹ của chính ḿnh, dùng tâm hiếu kính để
đối đăi. Những nhân viên ở đấy
đều được huấn luyện, đều
đă trúng tuyển khảo hạch, chăm sóc các cụ già
chu đáo, nhưng chẳng có tâm hiếu thuận, coi đó
như là công chuyện phải làm, chẳng có ư vị t́nh
người, thiếu sót điều này!
Khi xưa, ông Lục Khắc
Văn (Kevin Michael Rudd)[2]
được bầu làm Thủ Tướng Úc, tôi
đề nghị, sự quen biết giữa ông ta và tôi
cũng khá, những nhân viên trong viện dưỡng lăo
nhất định phải thực hiện hiếu
đạo. Ông ta cổ vũ tôi điều hành một
viện dưỡng lăo để làm mẫu, làm
gương. Sau khi tiến hành tốt đẹp, sẽ phổ biến trên toàn quốc,
đó là biện pháp tốt đẹp. Hiện thời, làm
bất cứ chuyện ǵ, nói theo người Trung Quốc,
nêu gương rất quan trọng. Chúng ta thường nói “nêu
gương rất quan trọng”, quư vị làm cho
người ta thật sự trông thấy, họ liễu
giải chuyện ấy tốt đẹp, phải nên làm
theo cách thức như vậy. Nhất là đem giáo dục
nhân quả nói với họ, họ thật sự thông
hiểu, sẽ là tu đại phước báo. Người
học Phật chăm sóc người già, tương lai
sẽ thành Phật, quyết định văng sanh.
Người tín ngưỡng tôn giáo chắc chắn sẽ
sanh lên thiên đường. Đối với người
chẳng có tín ngưỡng tôn giáo, quư vị chăm sóc
người già là vô úy bố thí, bản thân quư vị
sẽ đạt quả báo ǵ? Khỏe mạnh, sống
lâu. Tu ba thứ bố thí nơi đó đều dễ
dàng! Quư vị phục vụ họ là Nội Tài Bố Thí.
Quư vị thường chuyện tṛ với họ,
thường bầu bạn với họ, đó là Vô Úy Bố
Thí và Pháp Bố Thí. Quư vị khiến cho tâm lư họ vui
vẻ, chẳng cảm thấy cô đơn, [cảm
thấy] viện dưỡng lăo ấy giống như gia
đ́nh của chính ḿnh, các nhân viên, người phục
vụ trẻ tuổi như vậy đều giống
như con cái hoặc cháu chắt của chính ḿnh, họ
sẽ vui sướng lắm! Phước báo ấy to
nhiều! V́ thế, mở viện dưỡng lăo là sự
nghiệp ǵ? Sự nghiệp của Phật, Bồ Tát.
Mở viện dưỡng lăo là sự nghiệp vô
thượng phước điền. Chỉ cần
điều hành tốt đẹp một viện dưỡng
lăo, quư vị có thể tạo ảnh hưởng rất
nhiều, thậm chí trong tương lai mở rộng
đến toàn thế giới. Người tiến hành
sự nghiệp như vậy là thần thánh, Phật,
Bồ Tát. Quư vị chẳng thể nói: “Các cụ! Tôi chăm
nom quư vị ăn cơm, thay quần
áo, chăm lo cuộc sống hằng ngày của các cụ
[là được rồi]”, chưa đủ! Quư vị
phải biết trong tâm họ đau khổ lắm! V́ trong
viện dưỡng lăo, nói cách khác, cứ mỗi tuần
thường có một hai cụ già qua đời, bị
khiêng đi, họ trông thấy bèn cảm nhận như
thế nào? Chờ đợi ở đấy, chờ có
ngày sẽ đến lượt họ. Ngồi ăn
để chờ chết, quư vị thấy cái cảm giác
ấy khó chịu lắm! Chúng ta trông thấy tê tái cơi ḷng,
thật sự muốn giúp họ. Khi ông Lục Khắc Văn
làm Thủ Tướng, đă thúc giục tôi tiến hành
ngay lập tức, hiện thời ông ta đă xuống
chức, tôi cũng chẳng muốn làm nữa! Chánh phủ
phải có tâm, phải có cái tâm ấy, khi thật sự làm,
chánh phủ phải khen thưởng. Hễ làm tốt, có
thể phát động toàn quốc, có thể phát động
cả thế giới, khiến cho người già trên
cả thế giới đều được chăm nom
rất tốt đẹp. Quư vị nói xem công đức
ấy to nhiều ngần nào? V́ thế, đầu tiên,
trọng yếu nhất là từ viện trưởng cho
đến nhân viên viện dưỡng lăo, tất cả mọi
người đều phải tiếp nhận giáo dục
luân lư, giáo dục đạo đức, đặc
biệt là giáo dục nhân quả. Họ hiểu nhân
quả, sẽ có thể toàn tâm toàn lực dốc sức,
biết đó là cái nhân tốt, trong tương lai sẽ
kết thành cái quả tốt đẹp, quả ấy
tốt đẹp chẳng thể nghĩ bàn. Quư vị
đến chỗ nào để t́m được cơ
hội gieo phước điền như vậy? Viện
dưỡng lăo là phước điền, là phước
điền thật sự. Chúng ta đến thăm nơi
phước điền tốt đẹp như thế,
đáng tiếc là họ chẳng biết gieo phước.
Mỗi ngày đều ở đó mà chẳng biết gieo
phước. Hiếu kính người già là gieo
phước, nhưng họ chẳng biết điều
ấy, thật đáng tiếc!
Nói đến sanh lăo bệnh
tử khổ, không ai có thể tránh được! Trừ
những điều này ra, c̣n có “oán
tăng hội khổ” (khổ v́ oán ghét mà phải
gặp gỡ). Trong hoàn cảnh nhân sự, quư vị
gặp kẻ oan gia đối đầu, trông chẳng
vừa mắt, chẳng muốn gặp hắn, nhưng
hằng ngày đều phải chạm mặt, quư vị
nói có phiền phức hay không? Học hành trong nhà
trường, đứa bạn ta không ưa mà thầy
cứ hết lần này tới lần khác xếp nó
ngồi chung một chỗ, ngồi cùng một bàn, oán
tăng hội đấy! Kẻ ta ưa thích thường
phải xa cách, đó là “ái
biệt ly”, kẻ yêu thích chẳng thể ở cùng
một chỗ. Loại thứ ba là “cầu bất đắc”, tức là trong tâm chúng
ta mong cầu, ham muốn, nhưng làm chẳng
được, [đó là] nỗi khổ Cầu Bất
Đắc. Ba loại lớn này, hiện thời mỗi cá
nhân đều chẳng có cách nào tránh thoát. Loại cuối
cùng là “Ngũ Ấm xí thịnh
khổ”, chẳng phải là bên ngoài, mà là trong tâm. Ngũ
Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức của
chúng ta. Nói theo cách bây giờ, chính là nhục thể và tinh
thần của chúng ta chịu đựng nỗi khổ
ǵ? Phiền năo, ưu lự, vướng mắc, những
thứ ấy. “Xí thịnh”
(熾盛) là giống như lửa cháy rất mănh liệt,
niềm vui của quư vị lấy đâu ra? V́ thế,
chúng được gọi là Khổ Khổ. Trong Phật
pháp nói “bát khổ giao tiên”
(tám nỗi khổ chen nhau nung nấu) là nói đến
Khổ Khổ.
Loại thứ hai là Hoại
Khổ. Phật pháp đem ba loại khổ này phối
hợp với tam giới. Trong Dục Giới, ba loại
khổ ấy đều có, [tức là] Khổ Khổ,
Hoại Khổ, Hành Khổ thảy đều có. Nếu
quư vị đắc Thiền Định, do đắc
Thiền Định sẽ sanh vào Sắc Giới Thiên. Trong
Sắc Giới Thiên chẳng có Khổ Khổ, họ
chẳng có tám nỗi khổ như đă nói trong phần
trước. Hễ có dục th́ tám nỗi khổ ấy
đều có. Chẳng có dục, tám nỗi khổ ấy
chẳng c̣n. Dục Giới [Thiên] cao hơn chúng ta. Sanh vào
Dục Giới Thiên chẳng phải là đầu thai, mà là
hóa sanh, nên chẳng có nỗi khổ năo về thân t́nh.
Họ hóa sanh, tức biến hóa. Sắc Giới có
mười tám tầng trời thuộc về Tứ
Thiền, chẳng có tài, sắc, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghỉ, chẳng có những điều
ấy, nên chư thiên Sắc Giới chẳng ngủ nghê,
tinh thần vĩnh viễn sung măn, chẳng bị mệt
mỏi. Cơi trời ấy tốt đẹp, chứ
Dục Giới Thiên chưa được! Dục Giới
Thiên vẫn có dục vọng, nhưng nó gồm sáu tầng
trời. Càng lên cao, dục vọng càng nhẹ mỏng.
Tứ Vương Thiên gần như chẳng khác ǵ nhân gian
chúng ta, tuy lợt lạt hơn chúng ta đôi chút, nhưng
chẳng lợt lạt nhiều lắm! Đao Lợi Thiên
và chúng ta chênh lệch rất lớn, như chúng ta thấy,
họ dục vọng cũng rất ít, tâm cũng dần
dần thanh tịnh, càng lên cao càng lợt lạt, nhưng
họ có Hoại Khổ. Hoại Khổ là ǵ? Họ có
thọ mạng, khi thọ mạng đă hết, vẫn
phải chết. Thọ mạng rất dài, tuy rất dài
vẫn có ngày kết thúc. Khi thọ mạng đă hết,
họ vẫn phải chết, lúc chết nỗi khổ
mới hiện tiền, khổ năo hiện tiền. Một
người lúc chết bèn cảm thấy khổ năo
chẳng phải là chuyện tốt, v́ sao? Kẻ ấy
sẽ đọa lạc xuống dưới. Lúc lâm chung,
tâm thanh tịnh, chẳng có cảm thụ khổ hay
sướng, sẽ tiến cao hơn, sẽ thăng lên,
chẳng đọa lạc, đó là công phu tu tŕ. Nếu
người thuộc Sắc Giới Thiên có công phu Thiền
Định sâu, sẽ tiến lên không ngừng. Sắc
Giới có mười tám tầng trời, dần dần
tiến cao hơn, đó là chuyện tốt. Nhưng
nếu lúc hết thọ mạng, đối với hoàn
cảnh cư trụ và sinh hoạt vẫn c̣n lưu
luyến, sẽ bị phiền phức to, vị trời
ấy sẽ đọa lạc, sẽ thọ sanh trong tầng
thấp hơn, chẳng thể sanh lên cao hơn. Đó là có
Hoại Khổ. Loại thứ ba là Hành Khổ, có nghĩa
là đổi dời. V́ thế, Sắc Giới có hai
loại khổ. Đổi dời là ǵ? Chẳng thể
ngừng được, Hành là chẳng dừng
được!
Đến Vô Sắc Giới
Thiên, chẳng có Hoại Khổ v́ Vô Sắc Giới
chẳng có thân thể. Sắc Giới có Sắc, chẳng
có Dục. Vô Sắc Giới ngay cả thân thể cũng
chẳng có, chẳng cần đến thân thể. Lục
đạo đều là phàm phu, chúng ta có thể gọi
[chư thiên trong Vô Sắc Giới] là “phàm phu cao cấp”,
phàm phu cao cấp chẳng cần tới thân thể. Vào
thời cổ, tại Trung Quốc, từ hơn hai ngàn
năm trước, quan niệm này đă được Lăo
Tử nhắc tới. Quư vị đọc Đạo
Đức Kinh sẽ thấy Lăo Tử đă nói như
thế này: “Ngô hữu
đại hoạn, vị ngô hữu thân” (ta có mối lo
nghĩ to lớn v́ ta có thân). Ngài nói chính ḿnh có nỗi ưu
tư rất lớn, nỗi ưu tư ấy là ǵ? Ta có
thân thể, chẳng có thân thể sẽ tốt lắm! Quan
niệm ấy của Lăo Tử là quan niệm của Vô
Sắc Giới, chẳng có thân thể thật tốt, có
thân người sẽ có nhiều phiền phức. Sắc
Giới Thiên c̣n có thân thể, nên họ vẫn phải có
nhà cửa để cư trụ. Vô Sắc Giới Thiên
thân thể đều chẳng có, cũng chẳng cần
đến nhà cửa, họ chẳng cần! Vô Sắc
Giới, nếu nói thông tục, sẽ là “linh giới”,
tức là nơi ở của linh hồn. Họ chẳng có
bất cứ hiện tượng vật chất nào. Nói
cách khác, nó chỉ có hiện tượng tinh thần,
chẳng có hiện tượng vật chất. Vật
chất bị biến hoại, tinh thần vĩnh viễn
chẳng thay đổi. Họ vẫn có nỗi khổ ǵ?
Họ cũng có thọ mạng, thọ mạng chính là công
phu Thiền Định của họ. Cảnh giới cao
nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (Naivasamjñānāsamjñāyatana). Vô Sắc Giới có bốn tầng,
tầng cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ Thiên, công phu Thiền Định của họ là tám
vạn đại kiếp. Một đại kiếp chính là
tinh hệ, tức thái dương hệ của chúng ta,
trải qua một lần thành - trụ - hoại - không. Nói
cách khác, sau khi thái dương hệ này hư hoại,
sẽ dần dần trở lại như cũ, lại có
thành - trụ - hoại - không. Tám vạn lần [thành -
trụ - hoại - không như thế], quư vị nói xem
thọ mạng ấy dài cỡ nào! Nhưng vẫn có
một ngày, cho đến lúc ấy, họ mất công phu
Thiền Định, do mất đi nên sanh phiền năo. V́
sao? Họ vốn nghĩ chính ḿnh đă thành Phật,
tưởng chính ḿnh là vĩnh hằng bất sanh, bất
diệt. Bất sanh bất diệt là Đại Niết
Bàn. Họ cho rằng chính ḿnh đă chứng đắc
Đại Niết Bàn, thật ra là hiểu lầm,
chẳng thật sự chứng đắc. Công phu
Thiền Định mất đi tức là thọ mạng
của họ đă tới, khi ấy, họ rất
phiền năo: “Ta đă chứng đắc Đại
Niết Bàn, v́ sao c̣n có sanh tử?” Do vậy, bắt
đầu hoài nghi và hủy báng giáo huấn của các
bậc thánh hiền: “Các vị thánh hiền gạt ta, ta
đă đạt đến cảnh giới này, cớ sao
chẳng giống như họ đă nói?” Hễ hoài nghi,
hủy báng như thế, tội ấy rất nặng.
Kẻ ấy chẳng biết chính ḿnh sai quấy, lại
c̣n toan hủy báng thánh hiền. Người Hoa nói “bà đắc cao, suất
đắc trọng” (trèo cao, ngă đau), từ chỗ
cao tột đỉnh rơi xuống chỗ thấp
nhất là địa ngục A Tỳ. Tội hủy báng
thánh hiền phải đọa địa ngục A
Tỳ. Nói cách khác, chư thiên Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ Thiên khi đă hết tám vạn
đại kiếp, chẳng có ai không đọa
địa ngục.
Điều
này khiến cho chúng ta suy sâu, nghĩ chín, chúng ta học
đạo phải hiểu rơ, có nên phát tâm sanh vào thiên
đạo hay không? Chớ nên! Sanh vào thiên đạo là
chọn lựa sai lầm. V́ sao? Chẳng rốt ráo! Tuy
phước báo của chư thiên to hơn chúng ta, thọ
mạng dài hơn chúng ta, nhưng nếu chúng ta thấy con
phù du trên mặt nước, từ lúc sanh ra cho đến
khi nó chết đi chỉ có mấy giờ, loài người
chúng ta thọ mấy chục năm, chư thiên nh́n chúng ta
có khác ǵ chúng ta nh́n loài phù du hay không? Thọ mạng của
chúng ngắn ngủi ngần ấy! Xác thực là như
thế, đừng nói là Vô Sắc Giới Thiên, chúng ta nói
tới Dục Giới Thiên th́ đă khôn sánh rồi! Đao
Lợi Thiên trong Dục Giới Thiên chẳng kể là cao,
là tầng thứ hai. Một ngày trong Đao Lợi Thiên
bằng một
trăm năm trong nhân gian chúng ta. Nếu loài người
chúng ta có thể sống một trăm tuổi th́ chư
thiên Đao Lợi sẽ thấy quư vị sáng sanh tối
chết, chư thiên Đao Lợi thấy nhân gian
[như vậy]. Một ngày trong Dạ Ma Thiên bằng hai
trăm năm trong nhân gian. Đâu Suất Thiên, hiện
thời Di Lặc Bồ Tát đang trụ nơi đó,
một ngày của họ bằng bốn trăm năm trong
nhân gian. Nếu chúng ta dùng hai mươi bốn giờ
để xem, chư thiên Đâu Suất thấy nhân gian
chúng ta thọ một trăm tuổi bằng mấy
giờ [của họ]? Sáu tiếng đồng hồ. Quư
vị phải biết chân tướng sự thật này,
chẳng có hứng thú sanh thiên, chẳng làm chuyện
ấy! Có công đức sanh thiên và tu vi như thế, dùng
những thứ ấy để sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới sẽ chẳng có vấn
đề ǵ, v́ sao chẳng sanh về thế giới
Cực Lạc? Đến thế giới Cực Lạc
mới thật sự giải quyết vấn đề.
Nơi ấy mới thật sự là vĩnh sanh (sống
đời đời), vô lượng thọ! Thật
đấy, vô lượng thọ chẳng giả, thật
sự là vô lượng thọ. Trở về tự tánh,
thật sự vĩnh viễn chẳng có sanh diệt.
Các lư luận và phương pháp
giảng trong bộ kinh này đều nhằm hướng
dẫn chúng ta văng sanh Tịnh Độ, thân cận A Di
Đà Phật, chứng đắc Đại Bát Niết
Bàn chân chánh, chẳng giống như chư thiên cơi trời
Phi Tưởng tưởng lầm cảnh giới ấy
(cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định)
là Niết Bàn, họ lầm rồi. Đă sai lại
chẳng nhận lỗi, trách móc Phật, Bồ Tát, tội
ấy nặng nề. Đă lầm mà thật sự
nhận lỗi, vẫn chưa đến nỗi
đọa địa ngục, nhưng chắc chắn là
họ sẽ đọa xuống dưới, v́ chẳng có
tầng nào cao hơn nữa, họ đă hưởng
hết phước, thời gian họ tu Định đă
hết rồi. Công phu Thiền Định mất đi,
chắc chắn bị đọa xuống, nhưng
chẳng đến nỗi đọa địa ngục A
Tỳ, thường là có thể đọa lạc trong nhân
gian, từ từ tu lại! Từ chỗ này, chúng ta
phải nghĩ: Đức khiêm hư của con
người là trọng yếu. Biết lỗi phải sám
hối, chớ nên chấp trước, điều này
rất trọng yếu. Chư Phật, Bồ Tát là bậc
tu hành chứng quả từng trải, các Ngài chẳng
lừa gạt chúng ta. Chẳng có lư do ǵ để các Ngài gạt
gẫm chúng ta! V́ sao? Chứng đắc cảnh giới ấy
liền biết hết thảy chúng sanh trọn khắp
pháp giới hư không giới và chính ḿnh có quan hệ ǵ?
Nhất thể. Lẽ nào tự ḿnh gạt gẫm chính
ḿnh? Há có lẽ ấy? Nói đến nhất thể th́ cũng
là nói tới quan niệm luân lư được giảng trong
Phật giáo. Luân lư là nói về quan hệ, thật sự nói
đến mức viên măn rốt ráo. Tổ tiên Trung Quốc
nói đến luân lư th́ chỉ nói đến con
người, bảo: “Hễ là
người, đều phải yêu thương”,
trọn chẳng nói đến động vật. Do
vậy, luân lư kiểu ấy tuy tốt đẹp, nhưng
chưa viên măn. Luân lư Phật pháp nói viên măn, nói đến
cuối cùng là dạy chúng ta: Hết thảy chúng sanh
trọn khắp pháp giới hư không giới, kể
cả núi, sông, đại địa, cây cối, hoa cỏ
có cùng một Thể, một Pháp Thân với chính ḿnh! Luân lư
ấy đă được giảng tới mức cùng
tột, giảng đến rốt ráo viên măn, đạo
đức được giảng đến mức
rốt ráo viên măn, nhân quả giảng đến mức
rốt ráo viên măn, nên mới biết Phật pháp thù
thắng, biết Phật pháp vi diệu, hy hữu khó
gặp! V́ vậy, “Hành giả,
thiên lưu chi nghĩa. Do nhất thiết chi thiên lưu vô
thường, nhi sanh khổ năo giả” (Hành có nghĩa là
đổi dời. Do hết thảy đổi dời, vô
thường, nên sanh khổ năo), đấy là sự
khổ năo của chư thiên trong Vô Sắc Giới Thiên. Hôm
nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới chỗ
này.
Tập
110
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang một trăm hai mươi chín, xem từ giữa ḍng
thứ hai từ dưới đếm lên:
“Gia
Tường Sớ vân: Tam hữu chi khổ (tức tam
giới sanh tử), cố vân tam khổ. Chân Giải vị
‘Tường thích vi ổn’ (chỉ Gia Tường sư
chi thích cánh vi ổn thỏa)” (Gia Tường Sớ
viết: “Do [dựa trên] các nỗi khổ trong Tam Hữu
(tức tam giới sanh tử) mà nói là Tam Khổ”. Sách Chân
Giải nhận định: “Tường thích vi ổn”, ư
nói cách giải thích của ngài Gia Tường rất ổn
thỏa), ổn trọng, thỏa đáng. Trước
hết, chúng ta nói đến Tam Hữu. Đây là danh từ
Phật học. Tam là tam giới, theo lời chú thích trong
ngoặc đơn, chính là Dục Giới Hữu, Sắc
Giới Hữu, Vô Sắc Giới Hữu, nên gọi là Tam
Hữu. Hữu (有) là ǵ? Có nhân. Có nhân, đương nhiên
có quả báo. Hữu ở đây là có nhân. Chúng ta có cái nhân
Dục Giới, gặp duyên, hiện tượng Dục
Giới bèn hiện tiền. Sắc Giới là phân biệt,
Vô Sắc Giới là vọng tưởng, kinh Hoa Nghiêm nói là
“chấp trước, phân biệt, vọng tưởng”. Đương
nhiên [trong tam giới] ba thứ ấy đều có, chỉ
là xét coi thành phần nào nhiều nhất [trong mỗi cơi].
Dục Giới chấp trước vô cùng nghiêm trọng,
lại c̣n kèm thêm phân biệt và vọng tưởng, đó
là cái nhân của Dục Giới. Sắc Giới chấp
trước nhẹ nhàng, nhưng phân biệt khá nặng,
đó là Sắc Giới. Tuy nói khá nặng, vẫn nhẹ
hơn Dục Giới rất nhiều, rốt cuộc
người ta ở trong mười tám tầng trời
của Sắc Giới. Vô Sắc Giới hoàn toàn là mê
hoặc, tức là vọng tưởng, nên họ chưa
thể giác ngộ, chưa thể vượt thoát tam
giới. Tam giới là lục đạo, vượt thoát
tam giới cũng là vượt thoát lục đạo luân
hồi. Nói theo Phật pháp, chúng là Kiến Tư phiền
năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền năo. Ba thứ
phiền năo ấy đều trọn đủ nên Tam
Hữu đều khổ, quả báo ở trong tam
đồ lục đạo, rất khó vượt thoát. Có
thể nói là chẳng gặp Phật pháp th́ về căn
bản là chẳng thể nào vượt thoát. Trong các tôn
giáo có giáo dục rất tốt, quá nửa là dạy quư
vị đoạn ác tu thiện. Thật sự có thể
đoạn ác tu thiện th́ trong lục đạo chỉ
có thể giữ sao cho chẳng đọa trong tam ác
đạo, luân chuyển trong hai đường trời -
người, trạng huống ấy vẫn tốt hơn
trong tam ác đạo rất nhiều, bởi đó là
phước báo nhân thiên. Phước nhất định
phải do chính ḿnh tu. Một đoạn kinh văn dài trong
phần trước nhằm dạy chúng ta tu phước.
Tu phước c̣n phải có trí huệ, có trí huệ th́ quư
vị mới nhận biết phước điền
thật sự. Nếu quư vị chẳng nhận biết
phước điền thật sự, ngỡ giả là
thật, không chỉ chẳng gieo phước, mà c̣n gây
tạo tội nghiệp, lầm mất rồi! V́ vậy,
trí huệ rất trọng yếu. Kinh Đại Thừa c̣n
gọi ba thứ phiền năo ấy là Kiến Tư
Thập Sử, toàn là nói đến chấp trước, là
một vấn đề nghiêm trọng trong lục
đạo. Kiến (見) là năm loại sai lầm to lớn
trong cách nh́n, Tư (思) là tham, sân, si, mạn, nghi, năm
thứ ấy là tư tưởng sai lầm, tạo thành
nghiệp nhân sanh tử trong tam giới, đó là các nỗi
khổ trong Tam Hữu. Đối với cách giải thích
này của ngài Gia Tường, pháp sư Đạo Ẩn
của Nhật Bản cũng khẳng định cách
giải thích ấy rất hay.
Chúng ta xem phần kế
tiếp: “Cái trừ Tam Hữu
sanh tử chi khổ, cánh hợp Tịnh Tông chi chỉ” (Bởi
lẽ, trừ bỏ nỗi khổ sanh tử trong Tam
Hữu càng hợp với tông chỉ của Tịnh Tông),
[nói về] tông chỉ tu học của Tịnh Độ
Tông chúng ta. “Chân Giải thích
kinh văn viết: Như Lai đại y vương,
năng tri kỳ bệnh, ứng bệnh dữ
dược, trị Tam Hữu chi khổ. Bệnh hữu
chúng đa, pháp dược diệc đa, cố vân chư
pháp dược” (Sách Chân Giải giải thích kinh văn
như sau: “Như Lai đại y vương biết các
bệnh, ứng theo căn bệnh mà cho thuốc để
trị nỗi khổ trong Tam Hữu. Do có nhiều loại
bệnh, nên pháp dược cũng nhiều. V́ thế, nói
là chư pháp dược”), đây là một đoạn
giải thích trong sách Chân Giải. Như Lai là nói hết
thảy chư Phật đều gọi là Như Lai. Sánh
ví chúng sanh trong lục đạo và trong mười pháp
giới giống như các bệnh nhân. Trong bốn thánh pháp
giới, bệnh nhẹ hơn một chút, chúng sanh trong
lục đạo bị bệnh rất nghiêm trọng, vô
cùng nghiêm trọng. Những vị ấy biết hết
thảy chúng sanh mắc bệnh ǵ, chư Phật Như Lai
biết, v́ sao các Ngài biết? Các Ngài đă kiến tánh,
mấu chốt của căn bệnh ở chỗ nào, không
ǵ chẳng biết. Chỉ cần kiến tánh th́ không ǵ
chẳng biết, không ǵ chẳng thể. Quư vị biết
cái gốc bệnh của họ ở chỗ nào, bèn
ứng theo chứng bệnh mà cho thuốc. Uống
thuốc vào, hết bệnh, thật sự chữa lành
bệnh. V́ thế, [nói là] “ứng
bệnh dữ dược”. Toàn là tỷ dụ chúng sanh
lắm nỗi mê hoặc, lắm tập khí phiền năo, nên
tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp. Những
ǵ quư vị đă tạo nhất định phải
thọ báo, chẳng phải là “tạo rồi bèn hết
chuyện!” Đức Phật dạy chúng ta tu pháp môn sám
hối, tội từ tâm khởi th́ vẫn phải dùng tâm
để sám. Sám trừ nghiệp chướng, tội bèn
tiêu. Tội đă tiêu, có phải là nghiệp chướng
chẳng c̣n nữa hay không? Không luôn luôn là như thế! V́
sao? Trong tâm chúng ta đă chẳng c̣n nghiệp chướng,
nhưng ta tổn thương, làm hại các chúng sanh,
họ c̣n có nghiệp chướng hay không? Nếu họ
vẫn c̣n có nghiệp chướng, sẽ ghi hận, oán
cừu chẳng báo chẳng được! Ta tuy thành
Phật, thành Bồ Tát, vẫn là đối tượng
báo cừu của họ.
Phật, Bồ Tát có phải
chịu quả báo hay không? Phải! Thích Ca Mâu Ni Phật
đă v́ chúng ta thị hiện, chúng ta phải hiểu rơ
ràng chân tướng sự thật này; nhưng các Ngài
thọ báo chẳng giống như chúng ta thọ báo, chúng ta
thọ báo là oán hận, chẳng biết trong quá khứ
đă tổn thương, làm hại người ấy,
quên sạch chuyện quá khứ! Đời này,
người ấy đến hại ta, ta không phục, ta
vẫn muốn báo thù. Đó là ǵ? Oan oan tương báo,
đời đời kiếp kiếp chẳng xong,
chẳng kết thúc, đôi bên đều đau khổ,
phàm phu làm như vậy. Bồ Tát đă giác ngộ, Ngài thọ
báo liền biết v́ sao ta gặp phải những
chướng nạn ấy. Ngài hiểu, do hiểu nên trong
tâm chẳng oán hận, trong ḷng vui vẻ, hoan hỷ
tiếp nhận, thanh toán xong rồi, kết thúc rồi,
chẳng c̣n oán hận nữa, chẳng c̣n báo đền
nữa, thật sự giải quyết vấn đề.
Chúng ta hiểu rơ ràng chân tướng sự thật này, quư
vị nhất định phải giác ngộ, chớ nên
tổn thương, làm hại một chúng sanh nào. Muỗi
đến chích ta, có nên giết nó hay không? Chớ nên! Quư
vị phải hiểu: Nó chích quư vị một phát, cũng
chẳng qua là nó muốn ăn uống, t́m được
quư vị, tức là quư vị và nó hữu duyên. Bồ Tát
từ bi cúng dường nó, để cho nó ăn no rồi
nó sẽ bỏ đi. Phàm phu ngu si chẳng biết,
thấy muỗi liền đập bốp một cái,
chết tươi, đánh chết tức là nợ nó
một mạng! Nay ta giết nó, đời sau, khi ta
phải biến thành muỗi, nó biến thành người,
nó cũng giết chết ta; lục đạo chúng sanh
đều làm chuyện hồ đồ này.
Do vậy, Phật, Bồ Tát
khác hẳn, Phật, Bồ Tát có thể thỏa măn dục
vọng của hết thảy chúng sanh, quyết
định sẽ không thương tổn, làm hại
họ. Những loài tiểu động vật có biết
hay không? Biết! Từ từ cảm hóa, giác ngộ chúng.
V́ sao? Tự tánh của chúng nó và tự tánh của chúng ta là
một, một Thể mà! Chúng nó mê nặng hơn ta, ta mê
nhẹ hơn chúng một chút. Do chẳng gặp gỡ
Phật pháp, chẳng thể giảng rơ ràng đạo lư
này cho quư vị, quư vị không hiểu rơ chân tướng,
chắc chắn làm chuyện sái quấy. Há có kẻ nào
bị oan uổng mà chẳng có mảy may oán hận ǵ?
Chỉ có người hiểu rơ, chỉ có người
thật sự giác ngộ liền biết quyết
định đừng sát sanh, quyết định
chẳng trộm cắp. Chẳng trộm cắp là không cho
bèn chẳng lấy. Vật có chủ, chủ nhân chẳng
chấp nhận, chớ nên dời động nó, hễ
dời động đều thuộc về cái tâm trộm
cắp. Tuy ta chẳng có hành vi trộm cắp, nhưng ư
niệm bất hảo, chủ nhân bày ra như thế,
cớ ǵ ta phải dời động nó? Không tà dâm:
Điều này thuộc về tham, sân, si. Tham, sân, si là tác
nhân độc hại gây bệnh nghiêm trọng. Chúng ta bên
trong có tham, sân, si, nên mới bị lây nhiễm bệnh ôn
dịch bên ngoài. Bên trong, tham, sân, si đă đoạn,
dẫu bên ngoài có ôn dịch, chẳng thể cảm
nhiễm, y học hiện thời gọi điều này là
“khả năng miễn dịch”. Khả năng miễn
dịch là ǵ? Buông tham, sân, si xuống, khả năng
miễn dịch bèn viên măn, bệnh truyền nhiễm ǵ quư
vị cũng chẳng nhiễm phải. V́ thế,
đức Phật dạy chúng ta “siêng tu Giới, Định, Huệ, diệt mất
tham, sân, si” là có đạo lư to lớn trong ấy!
Đặc biệt là trong xă
hội hiện tiền, tai biến rất nhiều, chúng ta
có thể nương theo giáo huấn của Phật, giáo
huấn của Bồ Tát, giáo huấn của thánh nhân,
đơn giản, ngắn gọn, chẳng phiền
phức tí nào. Đó là ǵ? Trí huệ của Phật, Bồ
Tát, trí huệ chân thật đơn giản, dễ
hiểu. Vâng giữ hiếu, đễ, trung, tín, buông tham,
sân, si, mạn xuống, bất luận tai chướng
như thế nào quư vị đều sẽ b́nh an
vượt qua. Chớ nên hoài nghi những chuyện này,
nếu hoài nghi sẽ chẳng có hiệu quả. Thật đấy!
V́ sao người khác hữu hiệu, mà ta vô hiệu? Do ta
có nghi hoặc nên chẳng linh, mất hiệu lực
rồi. Quyết định chẳng nghi hoặc, chắc
chắn Phật, Bồ Tát, các vị thánh hiền nhân là
những bậc từng trải, công phu tu hành của
người ta đă đạt đến tột bậc,
chúng ta há nên chẳng tin? Tin tưởng, nghe lời, y giáo
phụng hành, quyết định đạt được
lợi ích, sẽ trị liệu nỗi khổ Tam Hữu
cho chúng ta. Chứng bệnh rất ư là nhiều,
bệnh có tám vạn bốn ngàn thứ, [tức là] tám
vạn bốn ngàn phiền năo, nên đức Phật có tám
vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn giống như thuốc,
bệnh (khuyết điểm, phiền năo) của chúng sanh
giống như những thứ bệnh khổ. Pháp môn
của đức Phật là thuốc, nên nói là “chư pháp dược”. “Dĩ chư pháp dược,
cứu liệu tam khổ” (dùng các pháp dược,
cứu chữa tam khổ), ĺa khổ được vui,
Bồ Tát giúp quư vị viên măn.
Kế tiếp là “thăng Quán Đảnh giai”
(lên địa vị Quán Đảnh), mấy câu kinh văn
kể từ câu này trở đi [nói về] sự thọ
kư thành Phật. Quư vị đang ở trên đường
tu hành, chư Phật hộ niệm quư vị, câu này là
thọ kư. “Kiến
Đường dịch” (thấy trong bản
Đường dịch), câu này trích từ kinh Đại
Bảo Tích. Trong kinh văn của hội Vô Lượng
Thọ [trong kinh Đại Bảo Tích] có câu này (tức câu “thăng Quán Đảnh giai”).
“Giai giả, vị dă. Quán
Đảnh giả, Ấn Độ cổ đại
quốc vương tức vị thời, thủ tứ
hải thủy, quán ư vương đảnh” (“Giai”
(階)
là địa vị. “Quán Đảnh”: Quốc vương
Ấn Độ vào thời cổ, khi lên ngôi, dùng
nước bốn biển rưới lên đỉnh
đầu nhà vua). Đây là nói về ư nghĩa biểu
thị pháp trên mặt h́nh thức. Thái Tử đăng
cơ tiếp nhận ngôi vị quốc vương, bèn
cử hành nghi thức này, tức là nghi thức Quán
Đảnh. Dùng nước bốn biển: Chúng ta biết
Ấn Độ là một bán đảo, ba mặt là
đại dương, lấy nước ấy
rưới lên đỉnh đầu quốc vương. “Mật Giáo đồng chi”
(Mật Giáo cũng giống như vậy), Mật Tông trong
Phật giáo có lễ Quán Đảnh, “hữu Quán Đảnh pháp” (có pháp Quán Đảnh).
Tiếp đó là giải thích về Quán Đảnh, Quán
Đảnh gồm hai loại, “Quán
Đảnh hữu đa chủng, giản ngôn chi, tắc
vi nhị chủng” (Quán Đảnh có nhiều loại,
nhưng nói đơn giản th́ có hai loại), nói
đơn giản th́ nó gồm hai loại lớn. Loại
thứ nhất là “Kết Duyên Quán
Đảnh”, loại này rất phổ biến. Chúng ta
gặp một vị Thượng Sư, Thượng
Sư làm lễ Quán Đảnh cho chúng ta để kết
duyên, chẳng thật, loại này gọi là “Kết Duyên Quán Đảnh”. “Hành nhân khất pháp, vị kết Phật duyên,
dẫn nhập Quán Đảnh đàn, thọ dĩ Bổn
Tôn chi ấn dữ chân ngôn. Thử hậu, hành nhân tức
khả y giáo tùy phận tu tập, thị vi kết duyên Quán
Đảnh” (Hành nhân xin thọ pháp, nhằm kết duyên
với Phật, [Thượng Sư] bèn dẫn [hành nhân] vào
đàn Quán Đảnh, trao truyền ấn khế và chân
ngôn của Bổn Tôn[3].
Từ đấy trở đi, hành nhân có thể vâng theo
lời dạy, tùy sức tu tập, đó là Kết Duyên Quán Đảnh). Trong Mật Tông Trung
Quốc, nếu quy y Thượng Sư, sau khi hành lễ
quy y, Thượng Sư quán đảnh cho quư vị.
Đại khái là đối với một chén nước
dâng cúng trước Phật, dùng đầu ngón tay thấm
chút nước rảy lên đỉnh đầu, nghi
thức là như vậy. Trọng yếu nhất là
Thượng Sư truyền cho quư vị một bài chú
ngữ, bảo quư vị hăy thường niệm. Thông
thường chú ngữ là Lục Tự Đại Minh Chú,
tức “Án, ma-ni bát-mê hồng”
(Aum, mani padme hum), thường truyền bài chú này. Lúc tôi
vừa mới học Phật, quy y Chương Gia
đại sư, Ngài cũng cử hành nghi thức này cho
tôi. Chúng tôi quy y đông lắm, dường như tới
hơn ba mươi người; nhưng Ngài sử
dụng nghi thức Quán Đảnh chẳng trực
tiếp rảy lên thân từng người, mà dùng tay
thấm nước, búng lên không trung, nước rơi
xuống trúng đỉnh đầu từng người
chúng tôi. Truyền dạy Lục Tự Chân Ngôn, tức
Lục Tự Đại Minh Chú, dạy chúng tôi hăy
thường niệm câu chú ngữ ấy, giống như
Tịnh Độ Tông chúng ta niệm A Di Đà Phật.
Chúng tôi tuổi trẻ, đúng
là sơ học cũng chẳng hiểu chuyện, nhưng
thầy rất từ bi, chẳng trách móc chúng tôi. Tôi
thỉnh giáo lăo nhân gia, tôi thưa: “Án, ma-ni bát-mê hồng
nghĩa là ǵ?” Thông thường, trong Mật Tông chẳng
giải thích [chú ngữ], chỉ dạy quư vị niệm,
tôi cứ nhất định hỏi rơ ư nghĩa. Thầy
dạy: Chữ Án (Aum) trong câu chú là nói tới thân thể.
Ma-ni là hoa sen, trong kinh giáo chúng ta thường thấy dùng
chữ Ma-ni, Ma-ni là danh xưng của hoa sen trong tiếng
Phạn. Bát-mê là bảo tŕ (ǵn giữ), Hồng là ư, tức
tâm ư. Theo cách hành văn của họ, sẽ là “thân, hoa sen,
bảo tŕ”, tôi liền hiểu rơ. Người Hoa sẽ nói
như thế nào? Khẳng định là giữ ǵn thân tâm
giống như hoa sen. Hoa sen mọc lên từ bùn lầy
nhưng chẳng nhuốm bẩn. Câu chú có ư nghĩa dạy
chúng ta phải giữ ǵn thân tâm trong sạch giống
như hoa sen. Tôi nghe xong, ư nghĩa ấy hay quá, giống như
cách ngôn, thời thời khắc khắc nhắc nhở
thân tâm của chính ḿnh phải thanh tịnh, mang ư nghĩa
này. V́ thế, thầy giảng rơ cho chúng tôi, khiến cho
chúng tôi hiểu ư nghĩa, điều này rất quan
trọng. V́ sao? Mật Tông nhấn mạnh “miệng
niệm chú, tâm quán tưởng, tay kết ấn”, gọi
là “tam mật tương
ứng”, thân - khẩu - ư. Do quư vị chẳng biết ư
nghĩa này, quư vị quán tưởng bằng cách nào? Quư
vị chẳng có cách nào quán tưởng. V́ vậy, tôi theo
Chương Gia đại sư ba năm, Ngài chẳng
truyền dạy Mật Pháp cho tôi. Ngài bảo: “Mật pháp
nhất định phải có cơ sở Hiển Giáo cao
cấp. Nếu chẳng có cơ sở Hiển Giáo cao
cấp, sẽ chẳng thể học Mật”. V́ thế,
tôi theo Ngài ba năm, toàn bộ là nhằm đặt
vững cơ sở nơi Hiển Giáo. Chúng tôi liễu
giải: Trong Phật pháp, Mật thuộc loại Phật
pháp cao cấp thật sự. Quư vị chẳng có nền
tảng cơ sở, chắc chắn sẽ chẳng hành
được! Nhất định phải rèn luyện
thân tâm sao cho chẳng nhiễm mảy trần đối
với cảnh giới bên ngoài th́ mới có tư cách
học Mật, chẳng dễ dàng! Hiện thời, chúng ta
thấy học Mật quá nửa toàn là Kết Duyên Quán
Đảnh, tức là [người nhận Quán Đảnh]
có tu hay không, thầy chẳng chịu trách nhiệm, đó
là chuyện của bản thân quư vị! V́ thế, sau khi
được nhận nghi thức Quán Đảnh, quá
nửa người thọ đều chẳng y giáo
phụng hành, nghĩa là chỉ có h́nh thức, chẳng có
thực chất, chẳng thật sự đạt
được hiệu quả.
Loại thứ hai, “Thọ Chức Quán Đảnh,
ư như pháp tích hạnh chi sĩ” (Thọ Chức Quán
Đảnh là đối với bậc đúng pháp tu hành,
tích tập), Tích (積) là tích lũy, Hành (行) là tu hành, thật sự tu hành, tu hành có
thành tựu, “truyền thọ
bí pháp, nhi tác quán đảnh. Đắc quán đảnh
dĩ, kham thọ sư vị, ư Mật pháp trung tác A Xà
Lê, thị vi Thọ Chức (hoặc Truyền Giáo) Quán
Đảnh” (do truyền trao pháp bí mật mà làm Quán
Đảnh. Đă được Quán Đảnh bèn có
thể ở vào địa vị thầy dạy, làm
bậc A Xà Lê trong Mật pháp. Đó là Quán Đảnh
truyền chức (hoặc truyền giáo)). Loại Quán
Đảnh này giống như nghi thức trong điển
lễ trao bằng tốt nghiệp. Quư vị học hành
trong trường, đă học xong các lớp, sẽ
đạt được học vị. Thí dụ như
học vị Tiến Sĩ, hiệu trưởng trao
bằng học vị Tiến Sĩ cho quư vị;
điển lễ ấy được gọi là “Thọ Chức Quán Đảnh”.
Phép Quán Đảnh này là thật, chẳng giả, khẳng
định quư vị tu học thành tựu, do truyền trao
Mật pháp mà cử hành nghi thức này, cũng như báo cho
đại chúng biết quư vị có thể làm A Xà Lê. A Xà Lê
(Ācārya) là thầy, trong
trường học gọi là Giáo Thọ (giáo sư)[4].
Quư vị có tư cách đảm nhiệm vai tṛ giáo sư,
có năng lực dạy bảo học tṛ; điều
ấy gọi là “Thọ Chức
Quán Đảnh”, tức là quư vị đạt
được học vị. Nếu chẳng đạt
được học vị ấy, quư vị chẳng có
tư cách làm giáo sư. V́ vậy, những vị A Xà Lê
truyền pháp trong Mật Tông đều phải trải qua
Thọ Chức Quán Đảnh th́ mới được
khẳng định.
Hiện tại, trong thời
đại này, bậc cao tăng đại đức
đều chẳng c̣n. Có thể nói là hiện nay là thời
đại cả thế giới hỗn loạn nhất
từ trước tới nay. Chúng ta sanh nhằm
đời loạn, trong đời loạn, lắm kẻ
tạo ra nỗi oan nghiệt, ít người hành thiện.
Chư Phật, Bồ Tát có trụ thế hay không? Nói theo
lư, chúng sanh càng khổ, Bồ Tát càng phải đến.
Bồ Tát trụ thế nhằm cứu độ chúng sanh
khổ nạn. Nói chung, các Ngài chẳng thể thấy
chết mà không cứu, nhất định phải
đến. Tuy các Ngài có đến, nhưng chúng ta
đều chẳng nhận biết, các Ngài chẳng dùng
thân phận Phật để đến, cũng chẳng
dùng thân phận Bồ Tát để đến, thậm chí cũng
chẳng dùng thân phận A Xà Lê để đến, mà
thị hiện giống hệt như kẻ b́nh phàm chúng
ta, nên quư vị cũng chẳng nh́n ra. V́ sao? Thật sự
thị hiện làm Phật, Bồ Tát, A Xà Lê, quư vị
chẳng tin tưởng. Thị hiện làm nam, nữ, già,
trẻ, các nghề nghiệp trong dân gian; quư vị chú tâm
quan sát sự biểu hiện của các Ngài, [sẽ
thấy] tâm tưởng, ngôn luận, hành vi của các
vị ấy chắc chắn chẳng phải là tạo ác.
Chú tâm quan sát, sẽ thấy các Ngài xa ĺa Thập Ác, biểu
hiện của các Ngài chắc chắn tương ứng
với Tánh Đức, tương ứng với Thập
Thiện. Người Hoa nói là tương ứng với
luân lư, đạo đức th́ chúng ta gọi người
ấy là “hảo nhân”. Trong thời đại này c̣n có
hảo nhân, rất nhiều hảo nhân là do Phật, Bồ
Tát ứng hóa, là bậc đại thánh đại hiền
tái lai, đến ḥa quang đồng trần với chúng
sanh. Các Ngài ở chỗ nào, chỗ ấy tai nạn khá
nhẹ, thời gian xảy ra tai nạn khá ngắn,
đại chúng chúng ta được hưởng lây,
chuyện là như thế đó. Phật, Bồ Tát
chẳng cần quư vị cung kính các Ngài, cũng chẳng
cần quư vị tán thán các Ngài, điều ǵ các Ngài cũng
không cần, sống cuộc đời rất b́nh phàm, quư
vị không có cách nào cảm nhận. Nếu chẳng có các
vị ấy, tai nạn trong thế giới này sẽ khôn
xiết kể! Các Ngài làm cho tai nạn nhẹ bớt,
chậm lại, chẳng phải là làm chuyện ǵ khác.
Tiếp đó, [sách Chú Giải]
viết: “Thượng thị
thô phân. Nhược tường luận chi, tắc tại
thượng thuật nhị giả chi gian, thượng
hữu thường hành chi tứ chủng Quán Đảnh”
(Trên đây là phân chia thô thiển. Nếu luận
định cặn kẽ, th́ trong hai loại vừa nêu trên
đây, c̣n có bốn loại Quán Đảnh thường
được cử hành). Đây là kiến thức thông
thường được nói kèm thêm, có bốn loại Quán
Đảnh. Loại thứ nhất là “B́nh Quán, đắc tu tập sanh khởi thứ
đệ chi tự tại” (B́nh Quán, được phép
tự tại tu tập sanh khởi theo thứ tự). H́nh
thức này là [lễ Quán Đảnh sử dụng] tịnh
thủy b́nh, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát một
tay (tay trái) cầm tịnh b́nh, tay phải cầm cành
dương; dùng tịnh b́nh để quán đảnh[5].
Thông thường đều có thứ tự tu tập sanh
khởi, [nghĩa là] người học, tức là
người tu hành, thuật ngữ “hành nhân” trong Phật pháp nghĩa là “người
tu hành”, [tu tập] có giai đoạn. Như kinh Hoa Nghiêm nói
Thập Trụ, đạt đến địa vị cao
nhất là địa vị thứ mười có danh
xưng là Quán Đảnh Trụ, sẽ cử hành nghi
lễ này. Khi từ địa vị Thập Tín
đạt đến địa vị Quán Đảnh,
tiến lên cao hơn là Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
đạt đến địa vị cao nhất trong
mỗi tầng cấp. Đó là “tu tập sanh khởi theo
thứ tự”. Giống như chúng ta học hành trong nhà
trường, tốt nghiệp Tiểu Học, tốt
nghiệp Trung Học. Tốt nghiệp Đại Học
bèn có học vị. Tốt nghiệp Tiểu Học và Trung
Học đều chẳng có học vị. Đấy là
B́nh Quán.
Loại thứ hai, “Mật Quán, đắc tu khí
mạch, minh điểm chi tự tại” (Mật Quán,
được tự tại tu luyện khí mạch, minh
điểm[6]).
Công phu sâu hơn loại trước. Đây là dùng mật
chú, mật chú có rất nhiều tánh chất, trọn
chẳng tương đồng. Có các thứ mật chú
giúp quư vị đoạn phiền năo, có những mật chú
giúp quư vị giải trừ bệnh tật, khôi phục
sức khỏe nơi thân thể. Ở trong núi thẳm, hay
trên cao nguyên, nhất định phải tu những pháp môn
ấy. V́ sao? Sống tại các nơi ấy, việc
chữa trị hết sức bất tiện, phải dùng
năng lượng của chính ḿnh để giúp cho thân tâm
của chính ḿnh khỏe mạnh. Các mật chú ấy dùng
một loại âm thanh khiến cho các huyệt đạo
trong thân thể chúng ta thông suốt, không bị trở
ngại. Bệnh là ǵ? Do khí huyết không thông nên sanh
bệnh. Tại Trung Quốc, quá nửa là dùng phương
pháp xoa bóp, khiến cho nó được lưu thông,
hoặc dùng phương pháp châm cứu, chỗ nào bị
bế tắc, trở ngại, bèn đả thông chỗ
đó, bệnh tật sẽ lành, đạo lư là như
vậy đó. Phương pháp cao minh nhất là không cần
dùng đến châm cứu hay xoa bóp, mà dùng âm thanh. Chỗ nào
sanh bệnh, bèn dùng chú ngữ ấy, chúng ta gọi nó là “chú
ngữ”, trên thực tế là âm thanh. Âm thanh ấy phát ra,
chấn động chỗ bị ứ tắc, do bị
chấn động, nó được khai thông, đạo
lư là như vậy đó! V́ thế, trong Đại Tạng
Kinh, dùng mật chú để chữa bệnh có rất
nhiều chú ngữ, nhưng hiện thời chúng ta niệm
các chú ngữ ấy có thể chữa bệnh hay không?
Chẳng thể! Do nguyên nhân ǵ? Chúng ta niệm âm thanh không
chuẩn. Âm thanh ấy phải rất chuẩn xác, âm thanh
lại c̣n phải dài, ngắn, mạnh, yếu nhằm
chấn động một bộ vị tại một
nơi nào đó. Rất hợp lư, chẳng phải là vô lư,
đáng tiếc là đă thất truyền, hiện thời
chẳng có mấy người biết! Theo những ghi chép
trong lịch sử Trung Quốc, vào thời nhà
Đường, các chú ngữ chữa bệnh
được nói trong kinh điển đều hết
sức hữu hiệu. V́ thuở ấy, người
xuất gia lẫn tại gia học tập đều
rất đúng chân truyền, nên ứng dụng hết
sức thuận tiện. Nó có thể khiến cho năng
lượng của chính ḿnh tập trung, chẳng tản mát;
do vậy, thân thể khỏe mạnh, sống lâu, có
thể chống lại phong hàn bên ngoài. Mùa Đông mặc
quần áo rất mỏng mà chẳng lạnh; mùa Hè mặc
quần áo rất dầy, nhưng chẳng nóng.
Người ấy có khả năng như thế. Học
loại này cũng phải có công phu kha khá.
Loại thứ ba, “Huệ Quán, đắc cụ
Bồ Đề tâm quyết chi tu tŕ tự tại”
(Huệ Quán: Đạt được bí quyết tự
tại tu tŕ Bồ Đề tâm). Đây là Trí Huệ Quán
Đảnh, cũng là Thượng Sư gia tŕ học tṛ.
Các vị tổ sư đại đức Thiền Tông
Trung Quốc đă sử dụng phương pháp này
để giúp học tṛ đại triệt đại
ngộ, trong Mật Tông gọi phương pháp này là
Huệ Quán. Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Khi
nào vị ấy thấy đứa học tṛ này hiện
thời công phu đạt tới mức, đă chín
muồi, nhưng c̣n kém sút đôi chút. Chúng ta thường
nghe nói “bổng hát” (棒喝: đánh
bằng gậy, quát tháo) trong Thiền Đường,
đó là một thứ phương thức [tiếp
dẫn]. Khi người ấy sắp khai ngộ, nhưng
vẫn chưa khai ngộ, c̣n kém một chút, vị thầy
cao minh bèn giáng cho một gậy, hoặc hét một
tiếng, khiến người ấy cả kinh, tỉnh
ngộ, giải quyết vấn đề, chẳng
cần đến ngôn thuyết, khiến cho người
ấy hoát nhiên đại ngộ. Những trường
hợp giống như vậy được ghi chép
rất nhiều trong các bộ ngữ lục của Tông
Môn, có trường hợp là đại ngộ, có
trường hợp là đại triệt đại
ngộ.
Loại thứ tư là “Đại Thủ Ấn Quán,
đắc tu Đại Thủ Ấn đạo chi tự
tại. Mật Giáo trọng truyền thừa, vị kinh Quán
Đảnh, bất đắc thiện tự tu tập,
kinh quỹ diệc bất đắc thiện duyệt”
(Đại Thủ Ấn Quán: Được tự
tại tu tập theo đường lối Đại
Thủ Ấn[7].
Mật Giáo coi trọng sự truyền thừa.
Người chưa được Quán Đảnh,
chẳng được tự tiện tu tập, mà cũng
chẳng được tự tiện xem đọc các
kinh điển, nghi quỹ). Những điều này [là quy
định] trong Mật Tông, nên nó được gọi là
Mật. Mật ở đây chẳng phải là thần bí,
chẳng phải là bí mật, mà là thâm mật (sâu kín), có
đạo lư rất sâu. Nhất định phải có
thầy truyền thừa, dẫu quư vị có các kinh
điển ấy cũng chẳng thể học tập.
Quư vị cũng chẳng thể học thành, ắt
phải có người chỉ điểm. Chẳng
giống như Hiển Giáo, Hiển Giáo có thể “vô sư tự thông” (không có
thầy mà tự thông hiểu), chứ Mật Giáo th́ không
được! Mật Giáo nhất định phải có
Thượng Sư. Hơn nữa, tu học chưa thành
tựu, chẳng thể rời khỏi Thượng
Sư. Rời khỏi Thượng Sư sẽ không
thể thành tựu, hết sức coi trọng sư
thừa. Tôi theo Chương Gia đại sư ba năm,
lăo nhân gia bèn viên tịch; bởi vậy, tôi được
đặt vững cơ sở Phật pháp trong ba năm
ấy, hết sức khó có! Nếu chẳng có ba năm
cơ sở ấy, tôi theo thầy Lư học Giáo mười
năm vẫn học chẳng thể thành công! Do ba năm
cơ sở ấy, nên học Giáo ở chỗ thầy Lư
mười năm mới có căn
cơ vững vàng, mới có một chút thành tựu như
vậy, rất khó có! Lại nghĩ đến đâu
để t́m được một bậc thầy
giống như vậy nữa? T́m chẳng được!
T́m không được th́ làm như thế nào? Tôi
thường khuyến khích các đồng học, hăy làm
tư thục đệ tử của cổ thánh tiên hiền,
chư Phật, Bồ Tát, hăy học theo Mạnh Tử,
học theo Ngẫu Ích đại sư th́ trong một
đời này, chúng ta vẫn c̣n có thể hy vọng.
Chớ nên không đặt vững cơ sở đức
hạnh. Chẳng có đức hạnh sẽ không thể
có học vấn, chắc chắn là như vậy!
Nói cách khác, làm người chưa
xong th́ làm sao quư vị có thể làm Phật, làm Bồ Tát cho
được? Há lẽ nào có chuyện như thế
được? Nếu muốn học thánh, học
hiền, học Phật, học Bồ Tát, phải làm
người tốt đẹp trước đă. Giữ
tấm ḷng tốt, nói lời tốt, làm chuyện tốt,
làm người tốt, tôi thường nói là “bốn
thứ tốt”. “Tốt” có tiêu chuẩn, nhất
định phải ghi nhớ tiêu chuẩn, rất
đơn giản, chẳng phiền phức: Đệ
Tử Quy là tiêu chuẩn của Nho gia, Cảm Ứng Thiên
là tiêu chuẩn của Đạo gia, Thập Thiện
Nghiệp là tiêu chuẩn của Phật gia, ba thứ
ấy chẳng thể không học! Chẳng có ba thứ
ấy, niệm Phật văng sanh đều chẳng đáng
tin cậy, chẳng nắm chắc. Có cơ sở ấy,
học cơ sở ấy đến nơi đến
chốn, thực hiện một trăm phần trăm,
người ta hỏi quư vị niệm Phật văng sanh có
nắm chắc hay không? Quư vị thật sự nắm chắc!
Đúng như kinh điển vừa mở ra bèn là “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”, quư vị sẽ có phần. Thật sự
thực hiện, quư vị sẽ pháp hỷ sung măn, thật
sự là như Khổng Tử đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc
duyệt hồ” (học rồi tu tập, cũng
chẳng vui sao), thật sự đạt được
pháp hỷ, thật sự hưởng vui sướng, quư
vị làm được! Quư vị làm không được
bèn có phiền năo, ưu lự, đau khổ; hễ quư
vị làm được bèn chẳng có [những thứ
ấy]. Do người b́nh phàm học Phật, học
Đạo, học Nho đều coi thường, bỏ
sót các căn cội ấy, [viện cớ] h́nh như
chưa nghe nói người xưa đă học những
thứ ấy. Thật ra, chúng ta đă hiểu lầm
mất rồi. Người Trung Quốc trong thế kỷ
trước, đă học từ ngay khi mẹ mang thai,
lẽ nào chẳng học? Khi họ học, quư vị
chẳng thấy. Giáo dục ba căn cội được
giảng dạy vào lúc nào? Do mẹ dạy. Từ lúc sanh ra
cho đến ba tuổi, trong một ngàn ngày ấy là vun
quén căn bản giáo dục. Cổ ngạn ngữ Trung
Quốc có câu: “Tam tuế khán
bát thập”. Hiện thời, chẳng nghe ai nhắc
đến câu này, chứ lúc chúng tôi c̣n bé thường nghe
nói. [Câu ấy] nói rơ căn cội được vun
trồng trong một ngàn ngày của ba năm ấy,
đến lúc tám mươi tuổi vẫn chẳng
biến đổi. Căn cội ấy vun bồi rất
sâu, căn cội ấy được vun bồi rất
kiên cố. V́ thế, người ấy nếu gặp
duyên, hễ học Nho bèn thành thánh nhân, hoặc hiền nhân.
Học Đạo bèn thành thần tiên. Học Phật
sẽ thành Phật, hay thành Bồ Tát, thật đấy,
chẳng giả đâu!
Hiện tại th́ sao? Hiện
tại, trong thế kỷ này rất bất hạnh,
thế kỷ này là đời loạn. Sau khi nhà Măn Thanh vong
quốc, sang năm là đúng một trăm năm, suốt
một thế kỷ xă hội động loạn là do
mọi người coi thường, bỏ sót căn
cội này chẳng vun bồi. Nửa thế kỷ gần
đây, nói trên danh nghĩa là tiến bộ, chúng ta đi
theo đường hướng công nghiệp hóa, công
nghiệp hóa là như thế nào? Cạnh tranh. Chồng
cạnh tranh trong xă hội, tận hết sức
bươn chải vẫn chưa đủ sức, vợ
bèn tiếp sức. Hai vợ chồng đều đi làm,
con thơ sanh ra chẳng ai chăm sóc, cha mẹ chẳng
dạy dỗ. Trong nhà bèn thuê người làm, để
người làm dạy dỗ con thơ. Con của quư
vị biến thành người làm, chẳng phải là
như vậy ư? Quư vị đă làm hư thế hệ
kế tục. Người làm dạy như thế nào?
Người làm cho trẻ xem TV, trẻ nhỏ bèn ngoan ngoăn,
chẳng làm ồn nữa. Do vậy, hiện thời ai
dạy dỗ trẻ nhỏ? TV dạy chúng, học
Tiểu Học bèn được Internet dạy dỗ. Quư
vị hăy nghĩ xem, TV và Internet dạy chúng nó những ǵ?
Dạy chúng nó bạo lực và t́nh dục, dạy chúng nó
giết, trộm, dâm, dối, hủy hoại toàn bộ.
Quả báo là ǵ? Quả báo là xă hội hiện thời động
loạn, tai nạn trên địa cầu chẳng phải
là không có nguyên nhân. Quả báo hiện tiền, chẳng
biết do đâu mà có, v́ sao trong quá khứ mấy ngàn
năm qua chẳng có những tai nạn như vậy, v́
sao hiện tại có lắm tai nạn như thế?
Mọi việc ắt có nhân quả, hăy t́m nhân từ nơi
quả, từ cái nhân sẽ thấy được quả
báo, thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo. Tổ tiên
thật sự thương yêu con cháu đời sau, ân
đức ấy chẳng có cách nào báo đáp.
Khoa học hiện thời chê
tổ tiên ngu độn hơn chúng ta, nay chúng ta ra khỏi
cửa bèn ngồi xe hơi, ngồi máy bay, tổ tiên
cưỡi ngựa hoặc đi bộ, thua xa chúng ta. [Do
vậy], xem thường tổ tiên, đó là ǵ? Là
đại bất hiếu! Thời cổ, đại
bất hiếu là quả báo ǵ? Trời tru đất
diệt. Quư vị thấy tai nạn hiện thời có
phải là trời tru, đất diệt hay không, bất
hiếu mà! Bất hiếu cha mẹ, bất kính sư
trưởng, tai nạn bèn xảy đến. Các
đế vương Trung Quốc từ xưa tới nay
đề xướng ǵ? Họ đề xướng
hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy. Mỗi hoàng
đế đều mong mỏi sau khi chết, thụy
hiệu[8]
có chữ Hiếu, họ thông hiểu. Trong xă hội
hiện thời, chúng ta chẳng cần đến hiếu
kính, tức là quan điểm về giá trị trong xă
hội bị đảo ngược, nên nẩy sanh
biến hóa một trăm tám mươi độ! Trong quá
khứ, quan điểm giá trị là “hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”; hiện thời
chẳng c̣n nữa, trào lưu hiện thời là “bất
hiếu, bất kính, bất nhân, bất nghĩa”,
người sống trong thế gian rất đáng
thương. Chúng ta rất may mắn gặp gỡ giáo
dục của thánh hiền, gặp gỡ Phật pháp. Hăy
suy nghĩ, nếu chúng ta chẳng được gặp
Phật pháp, sẽ sống cuộc đời này như
thế nào? Rất khổ sở. Tuy nói là làm người,
nhưng chúng ta nghĩ xem, có khác ǵ ngạ quỷ và
địa ngục?
Chúng ta lại xem tiếp
đoạn dưới, đoạn này vẫn tiếp
tục cho chúng ta biết đôi chút kiến thức về Quán
Đảnh. V́ nội dung kinh Vô Lượng Thọ vô cùng
phong phú, có Hiển Giáo, có Mật Giáo, có Tông Môn, có Giáo
Hạ. Kinh văn tuy không dài, nhưng hết thảy các giáo
nghĩa do đức Thế Tôn đă nói trong bốn
mươi chín năm đều hiện diện viên măn
trong bộ kinh này. Câu kế tiếp là: “Hựu Quán Đảnh phục hữu Sơ Vị
dữ Hậu Vị chi biệt. Sơ Vị giả,
như Đại Nhật Kinh Sớ thập ngũ
viết: (Hạ văn lược hữu san tiết), thí
như thế gian Sát-lợi chi chủng, dục thiệu
tự kỳ vị, linh vương chủng bất
đoạn cố. Vị kỳ đích tử, nhi tác Quán
Đảnh. Thủ tứ đại hải thủy,
dĩ tứ bảo b́nh thịnh chi. Thủy linh lưu chú Thái
Tử chi đảnh. Quán thử thủy đă, đại
thanh tam xướng” (Lại nữa, Quán Đảnh có Sơ
Vị và Hậu Vị khác nhau. Sơ Vị là như
Đại Nhật Kinh Sớ quyển thứ mười
lăm chép: (Đoạn văn dưới đây đă
được trích lược) “Ví như ḍng Sát Đế
Lợi (Ksatriya) trong thế gian, do muốn cho ngôi vua
được tiếp nối khiến cho ḍng vua chẳng
bị gián đoạn, bèn làm lễ Quán Đảnh cho
đích tử. Lấy nước từ bốn biển
cả, dùng bốn cái b́nh báu để đựng,
rưới nước ấy lên đỉnh đầu Thái
Tử, lớn tiếng xướng ba lượt”). Kế
đó, là lời nhà vua nói: “Nhữ
đẳng đương tri, Thái Tử dĩ thọ
vị cánh, tự kim dĩ hậu, sở hữu giáo
sắc giai đương phụng hành” (các ngươi nên
biết, Thái Tử đă tiếp nhận chức vị,
từ nay trở đi, tất cả mệnh lệnh
của Thái Tử đều phải phụng hành). Đó là
tại Ấn Độ vào thời cổ, khi Thái Tử
tiếp nhận vương vị, trong phần
trước đă nói qua, đến chỗ này, bèn tŕnh bày
tỉ mỉ. [Quán Đảnh theo lối] B́nh Quán, sau khi Quán
Đảnh, mấy câu này là truyền lệnh của Thái Tử.
“Nhữ đẳng
đương tri” (các ngươi nên biết): Nhân dân
cả nước phải biết, Thái Tử đă
tiếp nhận ngôi vị, từ nay trở đi, tất
cả các mệnh lệnh của ông ta ai nấy đều
phải phụng hành.
Trong Phật pháp, dùng chuyện
này làm tỷ dụ: “Kim Như
Lai pháp Vương, diệc phục như thị, vị
linh Phật chủng bất đoạn cố, dĩ cam
lộ pháp thủy nhi quán Phật tử chi đảnh. Tùng
thử dĩ hậu, nhất thiết thánh chúng hàm sở
kính ngưỡng, diệc tri thử nhân tất cánh bất
thoái ư Vô Thượng Bồ Đề, định
thiệu Như Lai Pháp Vương chi vị. Dĩ
thượng tựu hành nhân Sơ Vị nhi thích” (Nay
đấng Như Lai Pháp Vương cũng giống
như thế, v́ muốn cho ḍng dơi Phật chẳng
đoạn, nên dùng nước cam lộ rưới lên
đỉnh đầu Phật tử. Từ nay trở
đi, hết thảy thánh chúng đều cùng kính
ngưỡng, và cũng biết người ấy rốt
ráo chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ
Đề, chắc chắn nối ngôi vị Như Lai Pháp
Vương. Trên đây là lời giải thích về Sơ Vị
[Quán Đảnh] của hành nhân). Đây là Thọ Kư Quán
Đảnh, người ấy đă thành Phật hay
chưa? Chưa thành Phật, nhưng ta biết
người ấy tu hành thật sự chẳng thoái
chuyển, tương lai nhất định thành Phật.
Đó là đức Phật thọ kư cho người
học, nên gọi là Sơ Vị. Đức Phật quán đảnh
có cần dùng đến nước hay không? Vẫn dùng,
nhằm biểu trưng pháp, quư vị phải biết
điều đó. Phật pháp trọng thực chất,
chẳng coi trọng h́nh thức, nhưng cần phải có
h́nh thức ấy để biểu diễn cho đại
chúng xem, hy vọng đại chúng nh́n vào h́nh thức
ấy, chớ quên ư nghĩa thật sự của việc Quán
Đảnh. Quán (灌) nghĩa là ǵ? Nghĩa là truyền trao.
Thầy giảng đạo lư tu hành cho quư vị nghe, quư
vị đă hiểu rơ, giác ngộ, đó là Quán Đảnh,
quán nhập! Giảng cho quư vị nghe, nhưng quư vị
nghe chẳng hiểu rơ, nghe chẳng thông suốt, tức là
tuy quán nhưng chẳng lọt vào [tâm của hành nhân]
được. Chuyện là như vậy đó. Quư vị
thật sự nghe hiểu, sau khi nghe hiểu, y giáo
phụng hành, đạt được lợi ích; cho nên là
Sơ Quán. Do điều này, chúng ta phải hiểu: H́nh
thức chẳng trọng yếu, có h́nh thức hay không
đều chẳng sao! Chúng ta cầu Phật quán đảnh
cho chúng ta, có cầu được hay không? Có thể! Có
quán nhập hay chăng? Tùy thuộc cá nhân! Cách cầu
như thế nào? Quư vị niệm kinh Vô Lượng
Thọ từ đầu đến cuối một
lượt, tức là được mười
phương Như Lai quán đảnh cho quư vị một
lần. Quư vị niệm một lần, thật sự
thấu hiểu, thật sự minh bạch, y giáo phụng
hành, tức là đă quán nhập. Mỗi ngày niệm hai
lần là được quán đảnh hai lần, mỗi
ngày niệm mười lần là được quán đảnh
mười lần. Đó là Chân Quán Đảnh, chẳng
giả. Tuy chẳng có h́nh thức, nhưng thật sự
được truyền thụ. Mười phương
ba đời hết thảy Như Lai đều y theo
phương pháp trong bộ kinh này để tu hành chứng
quả, và cũng nương theo phương pháp ấy để
giáo hóa hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy
chúng sanh thành tựu giống như Phật. Đó gọi
là Đại Quán Đảnh, Chân Quán Đảnh, quư vị
nhất định phải hiểu đạo lư này.
Từ đầu đến cuối bộ sách này, từng
câu từng chữ đều đáng gọi là “cam lộ pháp thủy”, hăy
thật sự y giáo phụng hành. Quư vị thấy từ
nay trở đi, “nhất
thiết thánh chúng hàm sở kính ngưỡng, diệc tri
thử nhân tất cánh bất thoái ư Vô Thượng
Bồ Đề” (hết thảy thánh chúng đều
cùng kính ngưỡng, cũng biết người ấy
rốt ráo chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng
Bồ Đề), tương lai văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới, nhất định
chứng đắc “Như Lai
Pháp Vương chi vị” (địa vị Pháp
Vương của Như Lai), khẳng định! Đó
là ư nghĩa Quán Đảnh trong Phật pháp, dùng chuyện
này để biểu thị pháp.
“Chí
ư Hậu Vị” (c̣n đối với Hậu Vị),
“Hậu Vị” là Quán
Đảnh sau khi thành Phật. “Tắc
như Bí Tạng Kư viết: Bồ Tát Sơ Địa năi
chí Đẳng Giác, cứu cánh thiên Phật quả thời”
(th́ như sách Bí Tạng Kư[9]
giảng: “Bồ Tát từ Sơ Địa cho đến
Đẳng Giác, khi rốt ráo đạt đến
Phật quả”), “thiên” (遷) ở đây là
chứng đắc, chứng đắc Phật quả,
chứng đắc địa vị Diệu Giác, “chư Phật dĩ Đại
Bi thủy quán đảnh” (chư Phật dùng
nước Đại Bi rưới đảnh), đây là
hết thảy chư Phật bằng gia tŕ bằng ư
niệm, nên gọi là “Quán
Đảnh”. Đối với bất cứ một ai,
đó là lúc nào? Lúc đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, mười phương chư Phật
gia tŕ người ấy. Chúng ta là hạng phàm phu tầm
thường chẳng thấy, nhưng chính người
ấy biết, chư Phật Như Lai biết, Pháp Thân
đại sĩ biết. Không chỉ biết mà c̣n
đều thấy, tin tức ấy lập tức
truyền khắp pháp giới, lẽ nào chẳng biết!
Chỉ có lục đạo phàm phu, ngoại phàm trong mười
pháp giới mê hoặc, điên đảo, những kẻ
ấy không biết. Mấy câu kết thúc rất hay, nhằm
nêu ra cho chúng ta biết ư nghĩa chân thật của Quán
Đảnh: “Hựu Bí Tạng
Kư Sao thất” (lại nữa, Bí Tạng Sao Kư, quyển
bảy), trong quyển thứ bảy có một đoạn
như thế này, “Quán giả”,
Quán là ǵ? “Đại bi hộ
niệm nghĩa” (nghĩa là đại bi hộ
niệm), đó là Quán. Đảnh là ǵ? “Đảnh giả, Phật quả tối
đảnh nghĩa” (Đảnh: Phật quả là
tột đỉnh). Trong Phật pháp, chỗ vô
thượng tối cao, tuyệt đỉnh trong Phật
pháp th́ gọi là Đảnh.
Thời đại Tùy -
Đường là thời đại hoàng kim trong Phật
giáo Trung Quốc, tại lănh thổ Trung Quốc,
mười đại tông phái đều được
thành lập trong thời đại ấy. Tiểu Thừa
có hai tông là Câu Xá Tông và Thành Thật Tông. Đại Thừa
có tám tông, trong tám tông ấy có Thiền Tông và Mật Tông,
Thiền Tông xưng là Tông Môn, bảy tông phái Đại
Thừa c̣n lại đều gọi là Giáo Hạ, nên
gọi là Tông Môn - Giáo Hạ. Vào thời cổ, tại Trung
Quốc, Phật giáo được gọi là Tông Giáo,
chẳng liên quan ǵ đến “tôn giáo” nói trong hiện
thời. Thời cổ, hễ nói đến Tông Giáo
tức là nói đến Tông Môn và Giáo Hạ trong Phật môn,
mang ư nghĩa ấy. Chữ Tông chuyên gọi Thiền Tông,
chữ Giáo chính là bảy tông phái khác biệt đều
gọi là Giáo. V́ sao xưng hô như vậy? Thiền Tông
dùng phương pháp giáo học đặc thù, chẳng có
văn tự, chẳng phải nương vào kinh
điển để giáo học. Những người [là
đối tượng của cách giáo học như
vậy] được gọi là “thần đồng”.
Bậc thượng thượng căn chẳng cần
đến văn tự, họ đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Sau khi đă kiến
tánh mới học kinh điển, chưa kiến tánh
chẳng học kinh điển. Sau khi đă kiến tánh,
học kinh điển nhanh chóng, như Long Thọ Bồ
Tát, đối với hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni
Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, Ngài cần
bao nhiêu thời gian để học trọn hết?
Học xong toàn bộ trong ba tháng, ba tháng đă tốt
nghiệp. Học như thế nào? Mỗi bộ kinh
đọc đôi ba câu đă hiểu rơ, chẳng cần
đọc kinh ấy nữa, nên học nhanh lắm! Ba tháng
là chín mươi ngày, chúng ta có lư do để tin
tưởng. Đối với Long Thọ Bồ Tát, chúng
ta chưa thấy [kinh sách ghi chép cụ thể để
chứng thực điều ấy], nhưng đối
với Lục Tổ Huệ Năng đại sư th́
chúng ta thấy được. Trong Đàn Kinh đă ghi chép
một trường hợp vô cùng hay. Thiền sư Pháp
Đạt cũng là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài,
cả đời là một bộ kinh Pháp Hoa, đại
khái đă niệm mười năm, [v́ Sư tự cho
biết đă] niệm hơn ba ngàn lần. Kinh Pháp Hoa
rất dài, đại khái mỗi ngày chỉ có thể
niệm một lần, bảy quyển kinh văn dài,
niệm ba ngàn lần. Tới bái kiến Lục Tổ
đại sư, gặp mặt, cúi đầu lễ,
nhưng đầu chẳng sát
đất, đảnh lễ ba lạy, đầu
chẳng sát đất. Đứng lên, Lục Tổ
hỏi Sư: “Vừa rồi ông lễ bái, đầu
chẳng chạm đất, ông có ǵ đáng để kiêu
ngạo đó chăng?” Đó là ngạo mạn, [tuy
đảnh lễ nhưng] đầu chẳng sát đất.
Sư rất thành thật, [thưa] “tôi đă niệm ba ngàn
biến kinh Pháp Hoa”, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài.
Lục Tổ hỏi Sư: “Kinh Pháp Hoa giảng ǵ vậy?”
Sư chẳng đáp được, niệm rất
thuộc, có thể đọc thuộc ḷng. Sư thưa
hỏi Lục Tổ, Lục Tổ bảo: “Ta chưa nghe
kinh ấy”. Lục Tổ không biết chữ: “Ông hăy
niệm cho ta nghe”. Kinh Pháp Hoa hai mươi tám phẩm,
Sư niệm đến phẩm thứ hai, Lục Tổ
bảo: “Được rồi, phần sau chẳng
cần niệm nữa, ta đă hiểu rơ toàn bộ
rồi”. Quư vị thấy hai mươi tám phẩm kinh,
[mới nghe] hai phẩm Ngài đă hiểu toàn bộ,
phần sau không cần [nghe nữa]. Trong ba tháng, Long Thọ
Bồ Tát hiểu rơ toàn bộ Đại Tạng Kinh
của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng có ǵ hiếm hoi,
lạ lùng! Do vậy, Tông Môn lợi hại, sau khi khai
ngộ, đối với Phật pháp, một kinh thông,
hết thảy các kinh đều thông. Thật ra, sáu
trăm quyển Đại Bát Nhă được Thích Ca Mâu
Ni Phật giảng trong hai mươi hai năm, kinh Kim Cang
là một phần trong ấy. Ngũ Tổ chỉ giảng
đại ư kinh Kim Cang cho Lục Tổ, mà cũng chẳng
cần đến kinh bổn, vào canh ba nửa đêm, chúng
tôi ước đoán chẳng giảng lâu hơn hai
giờ. Ngài giảng đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Lục
Tổ hoát nhiên đại ngộ, chẳng cần giảng
nữa. Những điều khác hoàn toàn chẳng giảng,
đă thông hiểu toàn bộ rồi. Ngũ Tổ
truyền y bát cho Sư, thọ kư cho Sư: “Ông giống như A Xà Lê, ông là Tổ Sư
đời thứ sáu của Tông Môn”.
Do cách giáo học đặc thù
của Thiền Tông, chẳng phải là bậc thiên tài
sẽ chẳng thể học, quư vị học ǵ cũng
chẳng được. Không giống như Giáo Hạ,
Giáo Hạ là một trường học thông thường,
trong bảy tông phái c̣n lại, Thiên Thai là Pháp Hoa Tông,
Hiền Thủ là Hoa Nghiêm Tông, trừ những tông chúng ta
quen thuộc ấy ra, c̣n có Tam Luận Tông, Pháp Tướng
Tông, Luật Tông, Mật Tông (Mật Tông cũng thuộc
về Giáo Hạ), và Tịnh Độ Tông. Những tông
phái ấy đều dựa theo kinh điển. Giống
như dạy học trong nhà trường, từ cạn
đến sâu, học từ từ, có Tiểu Học, Trung
Học, Đại Học, nghiên cứu sinh, nâng cao từng
bước một. Chẳng giống như Thiền Tông,
Thiền Tông là “một bước lên trời”, hễ khai
ngộ tất cả đều hiểu rơ. Tông Môn và Giáo
Hạ là hai loại phương thức giáo học khác
nhau. Giáo Hạ là cách giáo học thông thường, có
thứ lớp. Tông Môn chẳng có thứ lớp, nên rất
khó thành tựu. Lục Tổ Huệ Năng đại
sư tại Trung Quốc truyền pháp có thể nói là không
tiền khoáng hậu, sau Ngài chẳng có ai được
như vậy nữa. Trong đời Ngài, dưới
sự điều giáo (uốn nắn, giáo hóa) của Ngài,
có bốn mươi ba người đại triệt
đại ngộ. Trong quá khứ, Tông Môn chẳng có
nhiều người [đại triệt đại
ngộ] như thế! Một thầy truyền
được một hai học tṛ, làm sao có thể
truyền tới bốn mươi ba người? Các
vị tổ sư Thiền Tông sau đó truyền tối đa
cũng không quá ba, bốn người. Truyền
được một người là nhiều nhất, [những
vị thiền sư] chẳng có truyền nhân càng
nhiều, suốt đời t́m chẳng ra người
để truyền pháp!
Tông Môn và Mật Tông đều
phải có người truyền, nhất định
phải có thầy chân truyền để truyền trao,
chẳng có thầy đều chẳng thể thành tựu!
Không giống như Giáo Hạ, Giáo Hạ chẳng có
thầy, y theo kinh điển vẫn có thể thành tựu,
từ từ đạt được. Đặc
biệt là Tịnh Độ Tông trong Giáo Hạ, trong kinh
Đại Tập đức Phật đă thọ kư cho
mọi người chúng ta, lăo nhân gia nói rất hay: “Chánh Pháp thời kỳ, giới
luật thành tựu”, [nghĩa là] kể từ sau khi
đức Phật diệt độ, suốt một ngàn
năm là thời kỳ Chánh Pháp, thật sự có thể
tŕ giới bèn đắc Định, có thể chứng
quả A La Hán. Thành tựu trong nhà Phật là có thể ngay
trong đời này vượt thoát lục đạo luân
hồi, chứng quả A La Hán, được coi như
thành tựu. Chưa thể vượt thoát lục
đạo, vẫn luân hồi trong lục đạo,
tức là chẳng có thành tựu. Phước báo nhân thiên
chẳng thể coi là thành tựu, trong Giáo Hạ nhất
định phải hiểu điều này. “Tượng Pháp thời kỳ”, Phật giáo truyền
đến Trung Quốc, đó là một ngàn năm thứ
hai, “Thiền Định thành
tựu”, nên phong khí Thiền triển khai rộng
khắp tại Trung Quốc, pháp vận của Thiền là
một ngàn năm. Hiện thời chẳng c̣n nữa, nay
là thời kỳ Mạt Pháp, đại khái là hiện
thời học Thiền đắc Định đều
chẳng thấy. Thời kỳ Mạt Pháp, đức
Phật dạy “Tịnh
Độ thành tựu”. Mạt Pháp là một vạn
năm, hiện thời đă qua một ngàn năm. Từ
xưa đến nay, theo sự ghi chép của các bậc cao
tăng đại đức Trung Quốc, chúng ta có thể
thấy điều này từ các kinh điển bằng
tiếng Hán, Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh vào năm hai
mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, tức
năm Giáp Dần. Thích Ca Mâu Ni Phật tuổi Cọp,
năm Dần là năm Cọp, Giáp Dần mà! Thích Ca Mâu Ni
Phật nhập diệt vào năm năm mươi ba
đời Châu Mục Vương. Do vậy, Thích Ca Mâu Ni
Phật trụ thế tám mươi tuổi. Người
Trung Quốc tính tuổi theo lối hư tuế (tuổi
ta), c̣n người ngoại quốc tính theo tuổi
thật nên là bảy mươi chín tuổi. Nếu dựa
theo cách tính toán này cho đến hiện thời, tức là
từ năm Châu Mục Vương năm mươi ba cho
tới hiện thời sẽ là ba ngàn lẻ ba mươi
bảy năm. Đến nay, Mạt Pháp đă trải
hơn một ngàn năm, tức là một ngàn lẻ ba
mươi bảy năm, sang năm là một ngàn lẻ ba
mươi tám năm. Nhằm thời Mạt Pháp th́ “Mạt Pháp thời kỳ,
Tịnh Độ thành tựu”, Thích Ca Mâu Ni Phật
thọ kư chuyện này. Chúng ta sanh nhằm thời kỳ
Mạt Pháp, nhất tâm nhất ư tu pháp môn Tịnh
Độ, nghe theo giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật,
Ngài dạy chúng ta hăy tu Tịnh Độ trong thời
kỳ này.
Trong các kinh luận Tịnh
Độ, bộ kinh này là kinh điển trọng yếu
nhất, là đại kinh căn bản của Tịnh
Độ, kinh Vô Lượng Thọ thích hợp thời
đại này. Trong Tịnh Độ, vào lúc kết thúc
một ngàn năm thứ nhất của thời Mạt
Pháp, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trong
thế gian, v́ chúng ta hội tập một bản kinh viên
măn như vậy, khẳng định kinh bổn này c̣n
được lưu truyền chín ngàn năm nữa. Do
vậy, tại ngoại quốc, rất nhiều
người nói đến tận thế, nhưng Phật
pháp chẳng như vậy! Phật pháp hăy c̣n chín ngàn năm
về sau nữa, lẽ đâu có tận thế? Pháp
vận chín ngàn năm, trong quá khứ, Chương Gia
đại sư bảo tôi, [pháp vận] có hưng, có suy,
hễ có hưng, có suy, sẽ chưa phải là diệt
pháp, chư Phật, Bồ Tát sẽ chiếu cố. Chúng ta
hiện thời đang [ở vào thời kỳ Phật
pháp] suy vi, suy đến tột cùng chính là thời
đại này. [Phật pháp] có thể hưng khởi hay
không? Có thể! Chúng ta lưu ư, có những người
trẻ tuổi, thanh thiếu niên thật sự có thiện
căn, tôi nghĩ trong số ấy có những vị tái
lai, nếu phát hiện những người ấy, chúng ta
hăy toàn tâm toàn lực giúp họ, đời này qua
đời khác sẽ dần dần hưng vượng
lên.
Đây là nói theo nhà Phật,
tổ sư đại đức dạy chúng ta ư nghĩa
của Quán Đảnh, ư nghĩa thật sự của
sự Quán Đảnh được tŕnh bày bằng
mấy câu này. “Đại bi
hộ niệm” là ư nghĩa của chữ Quán, chân quán,
Đại Bi hộ niệm! Phật quả tột
đỉnh, kinh Vô Lượng Thọ là Phật quả
tột đỉnh. Quư vị thấy trong quá khứ, các
vị đại đức thời Tùy - Đường
cũng nhằm lúc tâm huyết sôi trào, mọi người
ngồi lại đàm luận: “Thuở đức Thế
Tôn tại thế, giảng kinh, thuyết pháp bốn
mươi chín năm, bộ kinh nào là đệ nhất,
trọng yếu nhất?” Gần như mọi
người đều công nhận kinh Hoa Nghiêm là bậc
nhất. V́ thế, tôn xưng kinh Hoa Nghiêm là “căn bản
pháp luân”. Thuở trước, tiên sinh Phương Đông
Mỹ giới thiệu Phật giáo cho tôi, đă nhắc
tới kinh Hoa Nghiêm, bảo kinh Hoa Nghiêm là khái luận
triết học trong kinh Phật. Theo cách nh́n ấy của
cụ, khái luận triết học trong kinh Phật th́
cũng là chí cao vô thượng. Cụ đặc biệt
giới thiệu với tôi, trong kinh ấy có lư luận viên
măn, có phương pháp tinh xác, tức là phương pháp tinh
mật và xác thực, phía sau lại c̣n kèm theo biểu diễn.
Cụ nói các sách triết học trên toàn thế giới
chẳng có sách nào có thể sánh bằng kinh Hoa Nghiêm. Quả
thật, kinh Hoa Nghiêm quá hay, cuối kinh là năm mươi
ba lần tham học nhằm biểu diễn cho chúng ta
thấy. Cuối kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy kinh viên măn
như thế nào? Mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc, Hoa Nghiêm đạt đến rốt ráo
viên măn. Chư vị phải biết: Nay chúng ta đang
đọc phẩm này là phẩm thuộc Tự Phần, “Đức Tuân Phổ Hiền”.
Do vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới là
thế giới ǵ? Thế giới của Phổ Hiền
Bồ Tát, chẳng phải là thế giới Hoa Nghiêm hay
sao? V́ thế, nói Hoa Nghiêm đến cuối cùng quy kết
về đâu? Quy vào Vô Lượng Thọ. Vô Lượng
Thọ là đệ nhất trong đệ nhất,
điều này đă được các vị tổ sư
đại đức công nhận từ xưa. Ngàn kinh
vạn luận chỗ nào cũng chỉ quy, Thích Ca Mâu Ni
Phật luôn dẫn dắt chúng ta niệm Phật cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân
cận A Di Đà Phật, nhất định sẽ
chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề trong
hội A Di Đà Phật. Do vậy, đối với Quán
Đảnh, kinh Vô Lượng Thọ mới thật
sự là “đảnh pháp”
(pháp cao tột đỉnh), cao hơn kinh Hoa Nghiêm, chúng ta
phải biết điều này. V́ thế, gọi là
Đảnh. Bởi lẽ đó, đọc bộ kinh này
từ đầu [đến đuôi] một lượt
tức là được mười phương hết
thảy Như Lai quán đảnh một lần, thật
đấy, chẳng giả. Có thể y giáo phụng hành,
lẽ nào chẳng được lợi ích!
“Chư
Phật hộ niệm, linh chí Phật đảnh trụ,
giai danh Quán Đảnh dă. Kim kinh vân ‘thăng Quán
Đảnh giai’, đối dự hội đại sĩ
nhi ngôn, năi chỉ Hậu Vị” (chư Phật hộ
niệm khiến cho đạt đến trụ nơi
Phật đảnh, đều gọi là Quán Đảnh.
Nay kinh này nói “đạt lên địa vị Quán
Đảnh”, đối với các vị đại sĩ
tham dự pháp hội mà nói th́ họ là Hậu Vị [Quán
Đảnh]). Sơ Vị đối với Hậu Vị
là nâng lên từng bậc, nâng lên tới địa vị
Diệu Giác. Chư Phật hộ niệm giúp cho chúng ta
thành Phật, đạt đến Phật đảnh
trụ, đó là ư nghĩa “Quán Đảnh”. “Nhược chỉ giáo đạo chúng sanh, tắc
thọ quán giả thị Sơ Vị” (nếu nói
về phía chúng sanh được chỉ dạy th́
người thọ Quán Đảnh thuộc Sơ Vị).
Nay chúng ta tiếp nhận Phật pháp, tiếp nhận kinh
Vô Lượng Thọ, thật sự y giáo tu học, th́ là Sơ
Vị Quán Đảnh. Quư vị đến thế giới
Cực Lạc, tương lai thành Phật, đó là Hậu
Vị Quán Đảnh. Ở đây là Sơ Vị.
Đoạn này nhằm giải thích ư nghĩa của sự
Quán Đảnh.
Đoạn kế tiếp là
thọ kư, “thọ Bồ
Đề kư”, câu kinh văn này cũng trích từ bản
Đường dịch.
“Thọ giả, phó dữ chi nghĩa (cấp nhĩ). Kư
giả, kư thức chi nghĩa, diệc tức huyền kư
chi kư” (Thọ (授) có nghĩa là trao cho (cho quư vị). Kư (記) nghĩa là ghi
nhớ, mà cũng là chữ Kư trong huyền kư), giống
như nay chúng ta nói là “tiên đoán”, dự báo trước,
chứ hiện thời quư vị vẫn chưa đạt
được. “Phật
đối phát đại tâm chi chúng sanh, thọ dữ
đương lai tất định tác Phật chi kư,
xưng vi Thọ Kư” (Đức Phật đối
với những chúng sanh phát đại tâm, dự đoán
người ấy trong tương lai nhất định
làm Phật, th́ gọi là Thọ Kư). Trước hết,
chúng ta phải hiểu [từ ngữ] “phát đại tâm chúng sanh”, “đại tâm” là đại Bồ Đề tâm,
phát tâm làm Phật, ta trong một đời này muốn thành
Phật, đối với những người như
vậy đức Phật mới thọ kư. Làm Phật
bằng cách nào? Niệm Phật bèn thành Phật. Nói cách khác,
thật sự phát tâm tu pháp môn Tịnh Độ,
đều là chúng sanh phát đại tâm, v́ sao? Tịnh
Độ là đại pháp, chẳng phải là tiểu
pháp. Tịnh Độ là đại thành tựu, chẳng
phải là tiểu thành tựu. Sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới, chẳng phải là chứng
A La Hán, chẳng phải là chứng quả vị Bồ
Tát, đến thế giới Cực Lạc là thành
Phật, quư vị và Thích Ca, A Di Đà Phật, Tỳ Lô Giá
Na Phật có địa vị giống nhau. Do vậy,
thật sự phát tâm niệm Phật chẳng tuyệt
diệu ư? Người b́nh phàm chẳng biết, lục
đạo chúng sanh cũng không biết. Không chỉ lục
đạo chẳng biết, ngay cả Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, Phật trong mười pháp giới cũng đều
không biết. Mười pháp giới vẫn là phàm phu
chưa kiến tánh y như cũ, Phật trong mười
pháp giới chưa phải là chân Phật. V́ thế, Thiên
Thai đại sư gọi những vị Phật ấy
là Tương Tự Tức Phật, chưa phải là Chân
Phật. Minh tâm kiến tánh mới là chân Phật, vị
ấy sử dụng chân tâm. V́ lẽ đó, pháp môn này không ǵ
cao hơn, không ǵ bằng, khôn sánh; chúng ta đă gặp
gỡ mà trọn chẳng biết trân quư, chẳng biết
giá trị. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào cũng
đều chẳng thể sánh bằng pháp môn này, ngay
cả Hoa Nghiêm vẫn chẳng sánh bằng. Nếu Hoa Nghiêm
thật sự hay hơn, cần ǵ cuối kinh phải có
mười nguyện Phổ Hiền dẫn về Cực
Lạc? Chẳng cần thiết! Cuối cùng [kinh Hoa Nghiêm]
vẫn phải dùng mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc, quư vị nghĩ xem có ư vị ǵ!
Bản thân tôi biết ḿnh
căn tánh chẳng thông lợi, nghiệp chướng
rất nặng. Thuở ban đầu học Phật,
suốt mười mấy năm chẳng hiểu Tịnh
Độ. Thầy khuyên tôi học Tịnh Độ,
thầy Lư đă khuyên mười mấy lần, tôi vẫn
chẳng động tâm. Thậm chí thầy c̣n phải
thốt ra những lời mà người b́nh phàm rất khó
nói. Thầy bảo tôi: “Anh
cứ tu Tịnh Tông thử coi! Anh thấy bao nhiêu vị
đại sư, đại đức từ xưa
đều học pháp này. Vạn nhất là bị lừa
th́ cả đống người bị lừa như
vậy, chúng ta bị gạt lần này cũng chẳng
sao!” Dùng những lời như thế bảo ban, khuyên
nhủ tôi, tôi vẫn chẳng tiếp nhận, tôi
cười cười, chẳng dám phản bác thầy,
nhưng tôi vẫn học Giáo. Khi đó, tôi học Giáo là
học Hoa Nghiêm. Tin tưởng [Tịnh Độ] như
thế nào? Cũng là có một ngày đột nhiên cảm
nhận, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát,
đó là hai vị đại Bồ Tát được tôn
kính nhất trong tâm mục của người học Hoa
Nghiêm, tôi nghĩ hai Ngài do học pháp môn ǵ mà thành tựu? C̣n
có Thiện Tài đồng tử là môn sinh đắc ư, là
đệ tử nhập môn của Văn Thù Bồ Tát,
chắc chắn Thiện Tài tu cùng một pháp môn với ngài
Văn Thù. Lúc đó, tôi đă giảng kinh Hoa Nghiêm
được một nửa, phần sau chưa giảng
đến, lật phần sau ra coi, coi đến quyển
thứ ba mươi chín trong bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm,
[nhận thấy] Văn Thù Bồ Tát phát nguyện văng sanh
thế giới Cực Lạc, Phổ Hiền Bồ Tát
cũng phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc.
Trong phần trước, chúng ta đă niệm hai bài văn
phát nguyện của các Ngài. Tôi cảm thấy rởn da gà,
chuyện này là như thế nào? Sau đấy, đọc
kỹ lưỡng năm mươi ba lần tham học
mới thấu hiểu. Vị thiện tri thức thứ
nhất trong năm mươi ba lần tham học là
tỳ-kheo Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội. Ban Châu
tam-muội là chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh
thế giới Cực Lạc. Thiện Tài đồng
tử tham phỏng vị thiện tri thức ấy
tức là ǵ? Tương trưng “tiên
nhập vi chủ”! Lại nh́n vào vị thiện tri
thức cuối cùng, mười đại nguyên
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc. Chúng tôi khẳng định, Thiện Tài
đồng tử từ đầu tới cuối
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Do như vậy,
tôi mới tin tưởng Tịnh Độ, mới
thật sự không dám khi dễ kinh luận Tịnh
Độ. Tôi trở về Tịnh Độ chẳng
dễ dàng, nhưng đă quay về bèn thật sự quay
đầu, chẳng giả, tôi đă hiểu rơ ràng. Sau khi
đă hiểu rơ, tôi mới tin tưởng, mới tiếp
nhận. Chưa hiểu rơ ràng, minh bạch, thầy khuyên
cách nào, quư vị thấy tôi đều chẳng
động tâm.
V́ vậy, những ai đă
dẫn tôi vào Tịnh Độ? Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng
Nghiêm. Lúc ấy, tôi ưa thích giảng những kinh
điển ấy, giảng đại ư kinh Pháp Hoa, tôi
nhớ h́nh như lúc ấy giảng đại ư kinh Pháp Hoa
sáu mươi giờ. Đúng là chẳng dễ dàng,
nhận biết rơ ràng, hiểu minh bạch th́ mới là
“được Phật thọ kư”. Quư vị thật
sự hiểu rơ ràng, minh bạch, khăng khăng một
mực tu học pháp môn này, hiện tiền được
Phật thọ kư. Khi nào đức Phật sẽ thọ
kư cho quư vị? Quư vị đọc đến đoạn
kinh văn này, ở đây là thọ kư Bồ Đề. “Thăng Quán Đảnh giai,
thọ Bồ Đề kư” (lên địa vị Quán
Đảnh, thọ kư Bồ Đề), chính là thọ kư
cho quư vị. [Nói cách khác], hai câu kinh văn này là đức
Phật thọ kư cho quư vị. Chúng ta phải thẳng
thừng đảm nhận, chớ nên khách sáo. Nếu
nghĩ “đấy là Phật thọ kư cho Bồ Tát, ta
chẳng có phần” th́ lỡ làng rồi! Quư vị phải
cùng với các vị Bồ Tát tiếp nhận lời
thọ kư của đức Phật, đó là chánh xác. Do
vậy, quư vị thấy đó, mỗi ngày quư vị
đọc kinh này là mỗi ngày khai ngộ, mỗi ngày
được Phật quán đảnh, mỗi ngày
được Phật thọ kư, khẳng định quư
vị phiền năo ngày càng nhẹ, chắc chắn trí
huệ ngày càng tăng trưởng.
“Kinh
trung”, câu kinh ấy, “thọ
Bồ Đề kư, biểu dự hội đại sĩ
quân mông thọ kư” (“thọ Bồ Đề kư” biểu
thị các đại sĩ tham dự pháp hội
đều được thọ kư), chúng ta cũng
thuộc trong số đó, chẳng lọt ra ngoài. Quư
vị chẳng chân tâm tu pháp môn này sẽ chẳng có
phần, chẳng thuộc vào đó. Ta chân tâm tu pháp môn này,
buông các pháp môn khác xuống, toàn tâm toàn ư chuyên tu pháp môn
Niệm Phật, một phương hướng, một
mục tiêu, một phương hướng là Tây
Phương Tịnh Độ, một mục tiêu là thân
cận A Di Đà Phật. Hăy nhớ “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”,
ư niệm có năng lượng chẳng thể nghĩ bàn.
Chúng ta chỉ có một ư niệm này, thân cận A Di Đà
Phật, chỉ có một ư niệm ấy, vĩnh viễn
theo gót A Di Đà Phật, học tập A Di Đà Phật, đó
là đúng. “Định
đương tác Phật” (nhất định sẽ
làm Phật), văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có ai không thành Phật. Tuy thành Phật có
sớm hay trễ khác nhau, nhưng có thể nói: Đều
là thành Phật rất nhanh chóng! Quư vị thấy
người hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư là địa vị thấp nhất,
đạt đến “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật” chỉ cần mười hai kiếp. Thoạt
nh́n, chúng ta thấy mười hai kiếp rất dài,
nhưng trong thế giới Cực Lạc [thời gian
ấy] rất ngắn, do thọ mạng là vô lượng
thọ nên mười hai kiếp c̣n chưa bằng
mười hai ngày! Trong các thế giới phương khác,
chẳng t́m được điều này! Trong các thế
giới phương khác, quư vị phải đoạn
phiền năo, quư vị nghĩ xem phiền năo rất khó đoạn.
Đoạn Kiến Tư phiền năo rồi mới
chứng A La Hán, thành Phật càng xa xôi. Càng tiến lên cao,
phiền năo càng khó đoạn. Do vậy, trong các thế
giới phương khác, [chẳng hạn như trong]
thế giới Sa Bà của chúng ta, thành Phật phải
mất vô lượng kiếp. Đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới, chậm nhất là
mười hai kiếp, nhanh nhất th́ sao? Nhanh nhất là
tới đó bèn thành! Chúng ta chưa thể đạt
được nhanh nhất, nhưng cũng chẳng
đến nỗi chậm nhất. Thông thường trong
thế giới Cực Lạc, để thành Phật,
ước chừng ba, bốn, năm kiếp là đă thành
tựu, thật sự hy hữu, khó gặp. “Phục chỉ thị chư
đại sĩ quảng vị chúng sanh thọ kư tác
Phật” (lại c̣n có nghĩa là các vị đại
sĩ ấy đă thọ kư cho rộng khắp các chúng sanh
đều thành Phật), câu này đă bao gồm toàn bộ
chúng ta trong đó. Các vị đại sĩ ấy là các
vị Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, mà cũng là các vị Bồ Tát trong mười
phương các cơi Phật, chẳng có vị nào không
giảng bộ kinh này, chẳng có vị nào không truyền
pháp môn này, đều là khuyên trọn khắp hết
thảy chúng sanh hăy niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Những vị ấy đă thọ kư hết
thảy chúng sanh làm Phật, thật vậy, chẳng
giả. Chúng ta đă gặp gỡ, phải cảm ân,
phải thật sự tu tập. Pháp môn này và kinh
điển này đă ban cho chúng ta hy vọng vô cùng, chúng ta
phải nhận biết, phải nắm vững cơ duyên
này, quyết định thành tựu trong một đời
này. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập
tới đây.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 55 hết
[1] Cụ Triệu Phác Sơ quê ở
huyện Thái Hồ, tỉnh An Huy, Ḥa Thượng Tịnh
Không quê ở huyện Lô Giang, tỉnh An Huy.
[2] Kevin Michael Rudd (sinh năm 1957) là thủ
tướng thứ 26 của Úc từ năm 2007
đến năm 2010, thuộc đảng Lao Động.
Ông chủ trương điện toán
hóa ngành giáo dục Úc, tức là mỗi học sinh từ
cấp hai trở lên phải có một máy computer trên bàn
học trong trường, đồng thời nới
rộng chính sách di dân, tăng thuế, cũng như
nhiều chính sách quan trọng khác. Người Hoa đă
đọc tên ông ta theo kiểu họ trước tên sau nên
trong cộng đồng Hoa Kiều tại Úc, ông ta
thường được gọi là Lục Khắc
Văn (Rudd Kevin).
[3] Bổn Tôn (Istha-devatā) là thuật
ngữ trong Mật Giáo, tức là vị chủ pháp của
một đàn tràng Mạn Đà La. Bổn Tôn có thể là
Phật, Bồ Tát hoặc Minh Vương, là đối
tượng chánh yếu để quán tưởng, hành tŕ
của một mật pháp nào đó. Chẳng hạn, hành
nhân tu chú Đại Bi th́ Bổn Tôn là Thiên Thủ Thiên Nhăn
Quán Âm. Bổn Tôn của chú Lục Tự Đại Minh là
Tứ Tư Quán Âm (Quán Âm bốn tay). Trong các phép tu của
Mật Tông, thông thường khi tụng niệm chú, hành
giả phải quán tưởng chủng tự (Bija, seed
syllable) rành rẽ từng nét, từ chủng tự ấy
lưu xuất Bổn Tôn đúng theo mô tả trong nghi
quỹ mà hành nhân đang tu tập. Mật Tông Tây Tạng
lại quan niệm có Nội Tam Bảo và Ngoại Tam
Bảo. Ngoại Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, Nội
Tam Bảo là Guru (thượng sư), Bổn Tôn và Hộ
pháp (Dharmapala) – Không Hành Nữ (Dakini).
[4] Giáo Thọ là cách người Hoa
dịch chữ Professor hiện thời.
[5] Đây là nói theo nghi thức Đông
Mật (Đường Mật), chứ Mật Tông Tây
Tạng sẽ dùng một loại b́nh riêng, thường
gọi là Bhumpa, thường làm bằng bạc hoặc
đồng, có cẩn đá quư, chạm khắc các phù
hiệu cát tường, hoặc mật chú, trên miệng
b́nh có vành loe ra để lạt-ma cầm khi quán
đảnh. Bhumpa có thể có ṿi hay không. Thay v́ cành
dương, thường dùng một túm lông công gắn trên
một cái cán gỗ, cắm vào b́nh Bhumpa. Khi quán đảnh
sẽ dùng cán lông công ấy rưới nước lên
đầu hành nhân (theo truyền thuyết Ấn Độ,
loài công có thể ăn chất độc mà không sao, chúng có
thể biến chất độc thành những màu sắc
rực rỡ trên đuôi, nên lông công mang ư nghĩa tịnh hóa).
Đôi khi các lạt-ma c̣n rót nước ra cho hành nhân
uống và bôi lên đầu.
[6] Minh điểm (Bindu) hoặc thường được biết
dưới danh từ Tây Tạng là Thigle. Theo lư thuyết
Mật Tông, Minh Điểm là tinh hoa của sanh mạng
lực. Minh Điểm cùng với Khí (rLung) tạo thành cái
thân vi tế. Mật Tông Tây Tạng cho rằng trong thân
thể con người tồn tại hai Minh Điểm,
một có màu hồng, thừa hưởng từ mẹ, và
Minh Điểm màu trắng do thừa hưởng từ
tinh khí của cha. Phái Shakta trong Yoga Ấn Độ đi
xa hơn, quan niệm trong cơ thể con người,
năng lượng tỏa ra từ Minh Điểm
được tụ hội thành những nút chủ
chốt gọi là Chakra (thuật ngữ Tây Tạng là Khorlo, thường được dịch là Khí
Luân, Luân Tử, Mạch Luân, Khí Quải, hay Xa Luân. Từ
ngữ này thường được các sách Yoga của
Việt Nam gọi chệch thành Luân Xa). Trong cơ thể
con người có bảy Khí Luân như vậy. Chất
dịch do Minh Điểm tiết ra sẽ được
các Khí Luân ngăn chặn hay thúc đẩy luân lưu
khắp cơ thể. Đường luân lưu này
được gọi là Khí Mạch. Như vậy, Mật
Quán là cách Quán Đảnh, dạy cho hành nhân biết cách
thở hít, quán tưởng để đả thông các Khí
Luân và các khí mạch, cũng như điều chỉnh
năng lượng ḥng đạt được một
mức độ cao hơn trong Thiền Định.
[7] Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā), c̣n gọi là
Đại Viên Măn. Theo ḍng Gelugpa, pháp tu này do ngài Kim Cang Tŕ
(Vajradhara) truyền cho đại sư Tông Khách Ba (Tsong
Khapa, sáng tổ Hoàng Giáo Tây Tạng), nhưng tông phái Kargyupa
quan niệm phép tu này do chính Phổ Hiền Pháp Thân Phật
truyền cho ngài Tilopa, Tilopa truyền cho Naropa, Naropa
truyền cho Milarepa và biến thành một phép tu chủ
yếu trong tông Kargyupa. Phép tu Đại Thủ Ấn
bắt đầu bằng tu Chỉ, chuyển biến
mọi kinh nghiệm cảm nhận thành sự ngộ
nhập tánh Không. Thông thường, họ quan niệm
Đại Thủ Ấn gồm ba khía cạnh Kiến, Tu
và Hành. Kiến là trực nhận thể tánh của tâm là
sự thống nhất giữa tánh Không và tịnh quang,
mỗi hiện tượng đều mang dấu ấn
đặc biệt này. Tu là các phép tu để thể
hiện sự trực nhập ấy, bao gồm các phép quán
tưởng, tụng niệm thần chú, tŕ giới
để tịnh hóa thân tâm. Hành là ứng dụng sau khi
đă có kinh nghiệm trực tiếp về Đại
Thủ Ấn.
[8] Thụy hiệu (諡號) là tên đặt cho
đế vương, đại thần, hậu phi sau khi
đă chết nhằm ca ngợi phẩm đức tu
dưỡng của người ấy khi c̣n sống, hoặc
phê phán. Tục lệ này đă có từ đời Châu,
tương truyền, người đặt ra thụy
hiệu chính là Châu Công. Tục lệ này bị phế
trừ vào đời Tần Thủy Hoàng v́ ông ta quan
niệm: “Con phê phán cha, bầy
tôi phê phán vua là đại nghịch bất đạo”.
Tập tục này lại được tái lập
dưới đời Hán. Riêng đối với
đế vương, khi cúng giỗ chỉ tuyên
đọc thụy hiệu trong văn khấn cúng cơm
chứ không đọc tên húy. Đối với vua, thoạt
đầu thụy hiệu chỉ có một chữ,
tối đa là ba chữ, chia thành ba loại nhỏ:
- Thượng Thụy
nhằm ca ngợi đức hạnh của nhà vua như
Văn, Khang, B́nh, Mục, Tương v.v... (chẳng hạn
sử chép Châu Mục Vương th́ Châu Mục Vương
là thụy hiệu của nhà vua, khi vua c̣n sống chỉ
dùng niên hiệu).
- Trung Thụy dành cho những
vị được coi là minh quân, nhưng vẫn c̣n có
một hai những hành vi không đúng lắm. Chẳng
hạn như các chữ Mẫn (biết lo lắng cho
đất nước), Hoàn (nhân từ, nhưng hơi
hẹp ḥi), Kính v.v...
- Hạ Thụy mang tính
chất phê phán như Lệ (tàn bạo, thiếu
người thân cận, thích tàn sát), U (tối tăm), Linh
(loạn lạc, chẳng yên), Dượng (ham chuộng những
thứ lễ tiết xa xỉ), Ai (đức chẳng
đầy đủ, gặp gỡ tai nạn quá nhiều,
chết sớm)...
Từ thời
Đường trở đi, thụy hiệu bắt
đầu dài ra, nhưng đến đời Minh,
thụy hiệu của vua gồm mười bảy chữ
hoặc hai mươi mốt chữ, nhà Thanh quy
định là hai mươi mốt chữ hoặc hai mươi
ba chữ. Chẳng hạn vua Khang Hy có miếu hiệu là
Thanh Thế Tổ, thụy hiệu là Thể Thiên Long
Vận Định Thống Kiến Cực Anh Duệ Khâm
Văn Hiển Vũ Đại Đức Hoằng Công Chí
Nhân Thuần Hiếu Chương Hoàng Đế. Nhà Minh
cũng quy định thân vương thụy hiệu
chỉ có một chữ, quận vương hai chữ,
đại thần hai chữ. Khi nói đến các vị
danh thần tận trung, thường không gọi thẳng
tên mà gọi bằng thụy hiệu như Tăng Văn
Chánh (Tăng Quốc Phiên), Lư Văn Trung (Lư Hồng
Chương). Ngay cả trong Phật giáo, khi một vị
cao tăng đă mất, các vua cũng có thói quen sắc phong
thụy hiệu. Chẳng hạn tổ Bách Trượng
Hoài Hải khi tịch được vua ban thụy
hiệu là Đại Trí Thiền Sư, tháp hiệu là
Đại Bảo Thắng Luân.
[9] Bí Tạng Kư là tác phẩm do ngài Không
Hải (sáng tổ Chân Ngôn Tông Nhật Bản) viết, ghi lại
những điều được khẩu truyền
về Mật Pháp từ thầy của ngài là ḥa
thượng Huệ Quả trong thời gian cầu pháp
tại Trung Hoa.