Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 55

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 109

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang một trăm hai mươi chín, ḍng thứ bảy, xem từ câu cuối cùng: “Hựu Câu Xá Luận hữu tứ phước điền”, (lại nữa, Câu Xá Luận nói có bốn loại phước điền), xem từ chỗ này.

      “Nhất, thú điền, súc sanh dă” (Một là thú điền, tức súc sanh). “Trữ công đức, thị phước điền”, câu kinh văn này chỉ dạy chúng ta phải tu phước. Trong giáo pháp Đại Thừa thường nói “phước điền tâm chủng” (vun trồng cái tâm phước điền), chúng ta nhất định phải giữ thiện tâm, phải có thiện ư đối đăi hết thảy hữu t́nh chúng sanh. Nếu chúng ta có thể đối đăi súc sanh bằng ḷng thương yêu, che chở, đương nhiên sẽ chẳng thể hại người. Do vậy, trong bốn loại phước điền, Câu Xá Luận xếp súc sanh đầu tiên rất hữu lư. Chẳng hạn như đối với muỗi, trùng, kiến mà chúng ta đều yêu thương, che chở, chẳng tổn hại chúng nó, đương nhiên sẽ chẳng gây tổn thương cho những loài động vật lớn, đó là đạo lư nhất định. Tiểu động vật mà quư vị đều yêu thương, che chở, sẽ chẳng làm hại loài to hơn, càng chẳng thể tổn thương, làm hại loài người. Dụng ư ở chỗ này, chúng ta chớ nên không biết.

      Thứ hai là “khổ điền”: Thấy kẻ bần cùng, khốn khổ, chúng ta nhất định phải tận tâm tận lực giúp đỡ họ. Chưa đủ sức, người khác bần cùng, khốn khổ, ta cũng bần cùng, khốn khổ, ta chẳng thể giúp kẻ ấy về tài lực th́ cũng nên tụng kinh, niệm Phật hồi hướng, cầu phước cho kẻ ấy ḥng giúp đỡ kẻ ấy. Nếu có duyên phận có thể tiếp xúc với họ, phải giảng rơ ràng, minh bạch những đạo lư sau đây: V́ sao một đời này chúng ta gặp cảnh bần cùng, khốn khổ? Đó là quả báo. Quả nhất định phải có nhân, chúng ta thật sự có thể t́m ra cái nhân, tiêu trừ từ cái nhân, quả báo sẽ được thay đổi tốt đẹp hơn. Trong các kinh điển giảng về nhân quả, những chuyện này được giảng rất tỉ mỉ, rất rơ ràng. Kinh phổ biến nhất mà chúng ta đều có thể xem là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của Đạo Gia, trong ấy đă nêu ra thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo, tổng cộng một trăm chín mươi lăm điều. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, rành rẽ một trăm chín mươi lăm điều ấy, đều có thể thực hiện được, trong một đời này, chúng ta sẽ thật sự ĺa khổ được vui. Chúng ta hăy đối chiếu những khổ nhân đă nói trong ấy với những khổ báo [trong hiện thời] của chúng ta, sẽ t́m được cái nhân để sửa đổi nó. Chẳng có cách nào sửa đổi quả, v́ nó đă chín muồi, nhưng có thể thay đổi nhân. Nếu ta không tạo cái nhân ấy, cái quả ấy sẽ dần dần chẳng c̣n hiện tiền nữa. Chúng ta mong có quả báo tốt đẹp, nhất định phải tạo nhân tốt đẹp.

      Thời cổ, giáo dục chẳng phát triển như hiện thời, tôi nói lời này cũng phạm khuyết điểm, v́ sao? Thời cổ thật sự có giáo dục! Tuy hiện thời, trường học rất nhiều, nhưng chẳng phải là giáo dục, chẳng giống như giáo dục vào thuở xưa tại Trung Quốc. Vào thời cổ, trường học ở Trung Quốc là giáo dục, tốt đẹp mọi lẽ, dạy quư vị làm người như thế nào, làm một người tốt ra sao. Đó là giáo dục. Mục đích giáo học trong giáo dục truyền thống của Trung Quốc chính là ba cương lănh đă được giảng rất minh xác, rất rơ ràng trong sách Đại Học, mục đích giáo dục là đâu? Ở trong “minh minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện”, đó là mục đích giáo dục thuở trước. Nói đơn giản hơn một chút, dùng một chữ để nêu rơ th́ sẽ là như Tam Tự Kinh đă nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, mục đích giáo dục là khiến cho chúng ta trở về bổn thiện; đấy là mục đích giáo dục của Trung Quốc trước kia. Hiện thời, chẳng thể t́m được một nền giáo dục như vậy, chẳng c̣n nữa! Giáo dục hiện thời là [chú trọng rèn luyện] kỹ thuật, kỹ năng, giúp quư vị kiếm được một việc làm trong xă hội ḥng mưu sinh, lấy đó làm mục đích. Nói cách khác, nhằm mục đích kiếm lợi, ích kỷ, lấy kiếm lợi làm mục đích, hoàn toàn tương phản thời cổ. Người xưa đọc sách “chí tại thánh hiền” (chí mong thành thánh, thành hiền), v́ sao ta đọc sách? Ta mong làm thánh nhân hay làm hiền nhân, thánh hiền là trở về bổn thiện. Mục đích học hành khác nhau.

      Mưu sinh trong xă hội chẳng trọng yếu! [Cổ nhân quan niệm] “trời đă sanh ra ta, đương nhiên ta sẽ có cái ăn, chẳng bị chết đói, làm người mới là quan trọng”. Quư vị thấy hiện thời, trong xă hội hiện tại, những người trẻ tuổi biết làm việc, chứ không biết làm người. Giáo dục thời cổ là vừa biết làm người vừa biết làm việc. V́ sao? Trước hết, dạy quư vị làm người rồi mới dạy quư vị làm việc. Làm người chẳng xong, chẳng cần nói tới làm việc nữa! Từ Luận Ngữ, quư vị thấy Khổng lăo phu tử dạy học tṛ những ǵ? Thứ nhất là đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, thứ ba mới là chánh sự, “chánh sự” (政事) là khả năng làm việc. Trong tương lai, quư vị muốn theo đuổi một nghề nghiệp nào, sau khi học xong, quư vị có thể kiếm sống. Đức hạnh và ngôn ngữ được xếp trước, cuối cùng mới là văn học, văn học là nghệ thuật, nhằm nâng cao phẩm chất cuộc sống của chính ḿnh. Đó là chuyện cuối cùng. Người hiện thời gọi điều này là “giá trị quan” (cách nhận định giá trị), thời cổ chẳng có danh từ này. Giáo học thời cổ theo giá trị quan nào? Giá trị quan của thánh hiền, giá trị quan của quân tử. Hiện thời điên đảo, người hiện tại chỉ cần học sao cho có khả năng kiếm tiền là được rồi, chẳng cần học làm người, nên xă hội rối loạn. Xă hội vừa loạn, địa cầu liền bị bệnh. Quư vị thấy chánh báo của chúng ta xuất hiện vấn đề, y báo bèn trục trặc theo! Y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta. Hoàn cảnh sống chẳng tách rời địa cầu, trong một hai năm qua, các thứ tai biến trên địa cầu chưa hề thấy trong lịch sử quá khứ. Có người hỏi v́ sao biến thành nông nỗi này? Trong kinh Phật đă có câu trả lời: “Y báo chuyển theo chánh báo”. Câu trả lời ấy của đức Phật hay quá, đă làm sáng tỏ mọi nghi vấn, lo âu của quư vị. V́ sao biến thành nông nỗi ấy? [Y báo] chuyển theo chánh báo của quư vị, chánh báo là ǵ? Ư niệm. Ư niệm của chúng ta bất thiện, chẳng biết tu phước, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, không ǵ chẳng phải là tội, giống như kinh Địa Tạng đă dạy. Chúng ta tạo những ǵ th́ sẽ hứng chịu những thứ ấy, chớ nên không biết điều này! Không chỉ Nho, Thích, Đạo tại Trung Quốc giảng đạo lư này, chúng ta quan sát cẩn thận, gần như trong kinh điển của các đại tôn giáo trên thế giới đều giảng điều này. Thiện tâm, thiện hạnh sẽ có thiện báo, tâm hạnh bất thiện sẽ mắc ác báo. Đối với cá nhân, [ác báo] nhỏ là thân thể chúng ta nhiễm bệnh, bị bệnh khổ, đó là nhỏ; [ác báo] lớn sẽ biến thành tai nạn. Nếu đại đa số người trong xă hội tạo tác bất thiện, vấn đề sẽ nghiêm trọng. Kẻ tạo tác bất thiện rất đông, người thật sự hành thiện gần như t́m không ra, vấn đề bèn nghiêm trọng.

      Hiện thời, các nhà khoa học đă đưa ra một thông tin, cho biết họ đă phát hiện một số chân tướng trong vũ trụ hiện tại. Chúng tôi đang mong sẽ có cách chứng thực. Nếu [những thông tin ấy] là thật, sẽ đem lại hy vọng rất lớn cho chúng ta. Các nhà Lượng Tử Lực Học phát hiện, theo phát hiện mới nhất [của họ] th́ những thứ được chúng ta gọi là “vật chất” chẳng phải là vật chất thật sự. Bản chất của vật chất là ǵ? Họ phát hiện bản chất của vật chất là ư niệm của con người, chúng là huyễn tướng do ư niệm tích lũy liên tục sanh ra. Thông tin này hay lắm. Nếu thông tin này là thật, chúng ta sẽ có thể hóa giải các tai nạn trên địa cầu. V́ sao? Chúng do ư niệm biến ra! Chúng ta biết điều này giống như kinh Phật đă dạy, v́ sao y báo xảy ra chuyện? Do ư niệm của chúng ta bất hảo, bất thiện. Trong Phật pháp, thiện và ác có tiêu chuẩn rất rơ ràng! Thập Ác là bất thiện, sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt, tham lam, sân hận, ngu si, mười điều ấy là bất thiện. Nếu chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác tương ứng với mười điều ấy, đối với chính ḿnh mà nói, luận theo Trung Y, nếu quư vị tương ứng với mười điều ấy, Trung Y bảo quư vị đă làm hại thân thể, tổn hoại đức hạnh của chính ḿnh, thương thân, bại đức! Nếu ngược lại, có thể tương ứng với Thập Thiện, tức là chẳng trộm cắp, chẳng sát sanh, quyết định chẳng có ư niệm tổn thương, gây hại cho hết thảy chúng sanh. Không chỉ là chẳng tổn thương, gây hại động vật, mà c̣n phải yêu thương, che chở chúng. Thực vật, hoa, cỏ, cây cối đều phải yêu thương, che chở chúng. Núi, sông, đại địa cũng đều phải yêu thương, che chở. Phật môn dạy đối tượng từ bi của chúng ta là mười phương cơi nước, hiện thời, điều này được gọi là “thế giới vĩ mô”, khắp pháp giới hư không giới chúng ta đều phải yêu thương, che chở. Câu kế tiếp nói tới “vi trần pháp giới”, các nhà Lượng Tử Lực Học gọi chúng là “thế giới vi mô”, phải dùng kính hiển vi cao cấp để quan sát hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Quư vị thấy từ thế giới vĩ mô đến thế giới vi mô, chẳng có ǵ không yêu thương, che chở. Thập Thiện trọn khắp pháp giới hư không giới, thật sự đối đăi hết thảy chúng sanh bằng từ bi, thật sự là thiện ư.

      Chẳng trộm cắp: Phải hành “chẳng trộm cắp” đến mức quyết định chẳng có ư niệm chiếm tiện nghi của người khác. Hễ nghĩ muốn chiếm tiện nghi một chút, đó là cái tâm trộm cắp. Tuy quư vị chưa có hành vi trộm cắp, nhưng đă có tâm trộm cắp, chẳng tốt! Chẳng tà dâm, chẳng vọng ngữ, có thể làm được hay không? Dùng cái tâm chân thành để đăi người, tiếp vật. Chẳng nói đôi chiều. Nói đôi chiều là khêu động đúng - sai, tội ấy rất nặng. Nói thêu dệt (ỷ ngữ) là hoa ngôn xảo ngữ (ăn nói bóng bảy, ngọt ngào giả dối), có ư niệm lừa gạt người khác, đó là sai quấy! Ác khẩu là thốt lời thô lỗ, khiến cho người khác nghe xong cảm thấy khó chịu. Đừng nên có những điều này! Không tham, không sân, không si; muốn làm được những điều này đôi chút, phải thật sự hiểu nhân quả. Người thật sự liễu giải đạo lư nhân quả, sẽ tự nhiên có thể ước thúc chính ḿnh. Sức mạnh ấy to hơn luân lư, đạo đức và pháp luật. Nếu chẳng tin nhân quả, sẽ như cổ nhân đă nói: Trong các t́nh huống “danh cao, lợi trọng” sẽ biết rơ mà cố phạm, vẫn phạm sai quấy, tạo tội nghiệp. Thật vậy, từ lịch sử chúng ta đă thấy, mà trong thế giới hiện tiền, chúng ta c̣n thấy nhiều hơn nữa! Chúng tôi ở Tân Gia Ba, ngụ tại khách sạn, ông chủ khách sạn đă bảo chúng tôi: Nhân viên phục vụ của họ không ổn định. Do nguyên nhân nào? Tân Gia Ba mở ṣng bạc. Ṣng bạc tuyển người phục vụ, t́m những người làm trong khách sạn, trả tiền lương cho họ cao hơn một hai trăm đồng, họ bèn bỏ đi hết. Chẳng phải là lợi ích rất lớn! Cho quư vị một chút lợi lộc nhỏ nhặt, quư vị liền bỏ đi, giữa người và người chẳng có đạo nghĩa, chẳng có t́nh cảm, chỉ mong cầu lợi lộc, c̣n ǵ đáng sợ hơn? Chư vị hăy suy nghĩ kỹ lưỡng, người như vậy có ḷng ái quốc hay không? Mắt kẻ ấy chỉ thấy lợi lộc, địch nhân cho hắn một chút tiền, kẻ ấy liền làm Hán gian, sẽ gây tổn hại cho quốc gia của chính ḿnh, kẻ ấy ham tiền mà! Gần đây nhất, chúng ta thấy những chuyện này phổ biến nhất, trong xă hội này, con người chẳng có đạo nghĩa. Người thật sự có đạo nghĩa th́ nhân công và chủ nhân một ḷng, có nghĩa khí. Xí nghiệp của chủ nhân sắp phải đóng cửa, nhân viên chẳng bỏ đi, không nỡ ḷng nh́n chủ nhân gặp nạn, chẳng cần tiền công vẫn làm việc tại đó. Vào thời cổ, thường thấy chuyện như thế trong xă hội, khiến cho người khác phải bội phục những nhân công ấy. Nhân viên đối với chủ là tri ân, báo ân.

      Thời cổ, nhà kẻ phú quư thuê người hầu, nhà ấy suy bại, người hầu đều chẳng bỏ đi, v́ sao? Có cảm t́nh, có nghĩa khí, chiếu cố đến cùng. Hiện thời, trên thế giới này, chẳng có người như vậy! Nói “kiến lợi vong nghĩa” (thấy lợi quên mất nghĩa) vẫn c̣n dễ nghe lắm! Về căn bản, kẻ ấy chẳng có nghĩa, lấy ǵ để vong nghĩa? Kẻ ấy chỉ biết có lợi, chẳng biết đến nghĩa! V́ thế, luân lư chẳng c̣n, về căn bản là không biết, bất hiếu với cha mẹ, chẳng có tâm kính yêu cha mẹ. Trách móc cha mẹ: “Cha mẹ chẳng kiếm được nhiều hơn một chút để cho con”, thậm chí sát hại cha mẹ, xă hội hiện thời là như vậy đó! Bất kính tôn trưởng là hiện tượng phổ biến trong xă hội hiện thời! Nguyên nhân khiến cho xă hội động loạn cũng là do đă dạy dỗ sai lầm. Dạy dỗ thế hệ kế tiếp th́ trước tiên phải bắt đầu từ luân lư, đạo đức, điều này trọng yếu lắm; nhưng hiện thời, quư vị muốn dùng luân lư, đạo đức để dạy thế hệ kế tục nhất định sẽ gặp khó khăn. V́ sao? Toàn thể xă hội chẳng có, một ḿnh nhà quư vị nói đến luân lư, đạo đức, trẻ nhỏ của quư vị ra khỏi cửa, những thứ ấy (luân lư, đạo đức) là những thứ đă cổ lỗ, không dùng được, trẻ có thể tin tưởng hay chăng? Nó có thể tiếp nhận hay chăng? Quư vị nói với người già bảy tám mươi tuổi th́ được, họ sẽ gật đầu, có lư lắm! Nhưng quư vị nói với kẻ trẻ tuổi, họ lắc đầu, chẳng tin tưởng. Do vậy, trong xă hội hiện thực, chẳng có luân lư, đạo đức, nhân quả, mà cũng chẳng có pháp luật. Pháp luật quản trị người tốt, kẻ xấu t́m ṭi những kẽ hở trong pháp luật, nên pháp luật biến thành bảo vệ kẻ xấu. Đối với xă hội hiện tiền, trước kia, Mao Chủ Tịch đă nói là “vô pháp, vô thiên”, đúng là như vậy. Vô pháp vô thiên đến t́nh trạng ấy th́ trời cao phải can thiệp, vẫn phải xen vào, chẳng thể mặc kệ được! “Trời” ở đây là thiên nhiên, thiên nhiên đem lại bệnh tật, tai nạn cho quư vị. Những bệnh tật và tai nạn ấy đều do bản thân quư vị tự làm, tự chịu, chẳng phải do ai khác giáng xuống quư vị!

      Chúng ta sát hại các chúng sanh, trong Phật pháp đă nói tới lục đạo luân hồi, [thật ra], chuyện này vốn chẳng phải do Phật pháp nói, mà do Bà La Môn của Ấn Độ cổ xưa đă nói, kinh Phật đồng ư với cách nói đó: “Nhân tử vi dương, dương tử vi nhân” (người chết làm dê, dê chết làm người). Quư vị giết con dê này, ăn thịt nó, dê chết đi, đầu thai, lại sanh trong nhân gian, làm người. Nó đă chịu hết tội nghiệp làm súc sanh, lại quay về nhân gian. Người sát hại hết thảy chúng sanh, sau khi chết bèn biến thành súc sanh, người đă chết biến thành dê. Đời này, quư vị ăn nó, đời sau nó ăn quư vị, oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp chẳng xong, phiền toái quá! V́ vậy, trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta, đối với những loài tiểu động vật, trông thấy chúng nó phải sanh tâm thương xót. V́ sao chúng nó phải đầu thai như thế? Trong quá khứ, lúc làm người đă tạo tội nghiệp quá nặng. Nếu sát hại sanh mạng quá nhiều, sẽ hứng chịu quả báo như thế nào? Kinh dạy, như con phù du trên mặt nước, tức là loài trùng nhỏ chạy loăng quăng trên mặt nước! Loài tiểu trùng ấy thọ mạng rất ngắn, chỉ có mấy giờ, chết rồi lại đầu thai, mỗi ngày đều phải sanh tử vài lượt, chẳng biết đến đời nào mới xong! Quư vị sát hại bao nhiêu chúng sanh th́ quư vị phải sanh tử bấy nhiêu lượt, mới ḥng trả hết nợ! Điều này vẫn chưa thể coi là trả xong nợ, mà là tội nghiệp của quư vị tiêu tan. Sau khi tội nghiệp tiêu tan th́ mới trả nợ xong. Kinh dạy: Quư vị ăn kẻ khác nửa cân, phải đền trả kẻ ấy tám lạng. Trả nợ mà! Nợ mạng th́ phải đền mạng. Thiếu tiền th́ phải đền tiền. Quư vị nói xem có khổ lắm hay không? Mê hoặc, điên đảo, chẳng có trí huệ, làm chuyện ngu ngốc như thế, chớ nên làm!

      Khi bất hạnh gặp những tai nạn ấy xảy đến, chúng ta tuy chẳng có tội mà bị chết trong tai nạn. Tai nạn xảy ra, người tốt lẫn kẻ ác cùng chết sạch, có người thấy vậy chẳng phục: “V́ sao người ấy (người tốt) mắc tai nạn ấy? Gă kia là kẻ xấu, chết là đáng!” Luôn suy nghĩ theo kiểu ấy. Thật ra, đó là xử sự theo t́nh cảm, chẳng biết chân tướng. Chân tướng là ǵ? Cùng nhau gặp nạn là cộng nghiệp, nhưng sau khi đă chết, sẽ đến những nơi khác nhau! Người niệm Phật gặp nạn qua đời, bèn đến thế giới Cực Lạc, đó là chuyện tốt đẹp, chẳng phải là chuyện xấu. Kẻ chẳng học Phật, nhưng suốt đời hành thiện tích đức, bị chết trong tai nạn, bèn sanh lên trời. Người tu thiện tích phước ít hơn một chút bèn quay lại nhân gian, lại đi đầu thai, sanh trong gia đ́nh phú quư của nhân gian, nhất định sẽ tốt đẹp hơn đời này, chẳng phải là chuyện tốt đẹp ư? Kẻ tạo tác ác nghiệp sanh trong tam ác đạo, rất công bằng! Thật sự thấy rơ ràng, minh bạch, quư vị mới thật sự tin tưởng nghiệp nhân quả báo chẳng sai sót mảy may!

      V́ lẽ đó, chúng ta nói đến Thú Điền, tức là đối với hết thảy chúng sanh, hết thảy súc sanh, cây cối, hoa cỏ, núi, sông, đại địa, đều phải dùng tâm từ bi để đối đăi. Khổ Điền là gặp kẻ bần cùng, chúng ta toàn tâm toàn lực giúp đỡ, trọng yếu nhất là phải dạy bảo người ấy. Nghèo khổ về mặt vật chất chẳng kể là nghèo khổ thật sự, nghèo khổ thật sự là ǵ? Chẳng có trí huệ, chẳng có văn hóa, đó là nghèo khổ thật sự. Chưa từng tiếp nhận giáo huấn của thánh hiền, kẻ ấy vô tri, đó là nghèo khổ thật sự! Kẻ có cuộc sống vật chất khốn khổ, nếu tiếp nhận giáo dục của thánh hiền sẽ chẳng khổ, sẽ rất sung sướng. Nếu kẻ ấy học Phật, sẽ càng vui sướng hơn. Kẻ ấy có mong mỏi cuộc sống vật chất được cải thiện hay không? Chẳng mong mỏi, v́ sao? Ta sống rất vui sướng, cần ǵ phải t́m phiền phức! Người thật sự học Phật, nhất định nghe theo giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật, lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy. Người ấy sẽ hết sức tuân thủ giáo huấn của đức Phật, thực hiện Đệ Tử Quy, thực hiện Cảm Ứng Thiên, thực hiện Thập Thiện Đạo, thảy đều làm được. Dẫu phải làm kẻ ăn mày, người ấy vẫn rất sung sướng, chẳng mong mỏi cải thiện cuộc sống. Thật đấy, chẳng giả đâu! V́ sao? Người ấy chẳng có dục vọng. Càng học Phật càng thâm nhập, dục vọng bèn giảm xuống, giảm đến mức chẳng c̣n dục vọng, có thể giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội cây, đó là cuộc sống của kẻ ăn mày!

      Năm xưa, khi tôi mới xuất gia, thọ giới, Giới ḥa thượng (vị ḥa thượng truyền giới) của chúng tôi là lăo pháp sư Đạo Nguyên. Khi thọ giới, Ngài có kể một câu chuyện, chuyện thật, chẳng giả. Ở quê Ngài, h́nh như Ngài là người vùng Dương Châu, trong thời ấy, lúc Ngài c̣n bé, có một người ăn mày, quanh năm xin ăn bên ngoài. Buổi tối ở trong một ngôi miếu hoang, hoặc bất cứ chỗ nào có thể đánh một giấc là được rồi. Ban ngày đi khắp nơi du sơn ngoạn thủy, tới chỗ nào xin được một bát cơm lót dạ, người ấy rất vui sướng. Con cái của người ấy làm ăn phát đạt, nên rất nhiều người chửi bới họ: “Cái đồ bất hiếu! Coi bọn ngươi giàu có như vậy, khá giả như thế, sao lại để cho cha phải đi ăn mày?” Đứa con ấy cũng rất mất thể diện, sai rất nhiều người đi khắp nơi kiếm cha về, xếp đặt chu đáo để cha ở yên trong nhà ḥng phụng dưỡng. Cha anh ta chẳng quen với cuộc sống ấy, ước chừng ở trong nhà hơn một tháng, thấy người nhà canh chừng lơi lỏng một chút liền trốn mất, lại đi xin ăn. Người khác hỏi ông ta v́ sao? Vui sướng! Đó chẳng phải là người tầm thường. Quả thật, xin ăn thật là tốt, tấm thân thứ ǵ cũng chẳng có, cũng không sợ cường đạo cướp bóc, cũng chẳng sợ kẻ cắp vặt trộm cắp, ông ta thứ ǵ cũng chẳng có. Mỗi ngày du sơn ngoạn thủy, quư vị thấy [đối với ông ta] có cái ăn, có chỗ nghỉ ngơi [là được rồi], thật tự tại! Lăo ḥa thượng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này. Cuộc sống thật sự hạnh phúc mỹ măn là cuộc sống sung sướng, không nhất định phải có tiền, cũng không nhất định phải có địa vị. Lăo pháp sư nói người ăn mày ấy thật sự hiểu nhân sinh, thật sự hiểu hạnh phúc mỹ măn. Ông ta có cơ hội, con cái phát tài lớn, ông ta có thể hưởng một chút phước, nhưng không cần. Ông ta nói đó chẳng phải là phước, mà là khổ, chẳng phải là niềm sung sướng. Thân thể vẫn c̣n khỏe mạnh, quư vị thấy ông ta mỗi ngày du sơn ngoạn thủy thật vui sướng, t́m mấy người ăn mày làm bạn, lẽ nào chẳng vui sướng?

      V́ thế, truyền đạo quan trọng hơn bất cứ điều ǵ khác. Giúp cho người ta một chút vật chất, tặng cho họ một chút, nhưng truyền đạo cho người ấy quan trọng hơn bất cứ điều ǵ khác. Phật pháp thật sự lợi ích chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, đó là đúng. Nhất định phải chỉ dạy họ diệt trừ cội rễ bần cùng, dẫu bần cùng, trắng tay đến mấy, vẫn phải biết bố thí. Thật sự chẳng có tiền để bố thí, th́ hăy làm công quả trong các đạo tràng như của chúng ta, đó là tài bố thí, được gọi là Nội Tài Bố Thí. Ta đến làm công quả, chẳng cần đến tiền, phục vụ đạo tràng, dùng thân thể của chính ḿnh để bố thí; đó là Nội Tài. Nội Tài bố thí c̣n đạt được quả báo nhiều hơn Ngoại Tài. Ngoại Tài là quư vị bỏ tiền, dùng vật chất, tiền bạc để cúng dường, nhưng chẳng đích thân đến phục vụ. V́ thế, chúng ta hiểu, suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật có tài bố thí hay không? Có, Ngài dùng thân thể, thời gian và trí huệ của chính ḿnh để giáo hóa chúng sanh hằng ngày, đó là Tài Bố Thí. Bao nhiêu người được lợi ích! Sau khi học tṛ học thành tài, bèn hoằng dương rộng răi, rạng rỡ sự nghiệp lợi ích chúng sanh của thầy, lần lượt giáo hóa. Người đă giác ngộ bèn bằng ḷng đi theo con đường ấy. Chúng tôi chẳng nhận biết, tức là chẳng mảy may nhận biết Phật giáo, thuở trẻ, nếu quư vị bảo tôi đi xuất gia, bảo tôi làm chuyện này, tôi thà chết chẳng chịu làm, lẽ đâu có thể làm chuyện như thế được? Cả một đời này tôi chẳng nghĩ sẽ làm chuyện như thế!

      Tôi theo học Triết Học với tiên sinh Phương Đông Mỹ, phần cuối cùng trong Triết Học Khái Luận là “triết học trong kinh Phật”, tôi mới thật sự có nhận thức mới mẻ về Phật giáo, mới thật sự liễu giải Phật giáo chẳng phải là tôn giáo. Nhưng hiện thời, Phật giáo đă biến thành tôn giáo, nó xác thực chẳng phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Thầy dạy tôi, kinh điển nhà Phật là triết học cao cấp. Tôi nhập môn từ chỗ ấy, học suốt năm mươi chín năm, sang năm là tṛn một giáp tư (sáu mươi năm), càng học càng hoan hỷ. Gặp gỡ Chương Gia đại sư, lúc đó tôi một thân trơ trọi ở Đài Loan, chẳng có bất cứ vướng mắc ǵ. Thầy khuyên tôi xuất gia, dạy tôi hăy học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Thầy hết sức yêu thương tôi, chúng tôi hết sức tôn kính thầy, tiếp nhận ư thầy, nghe lời, đi theo con đường này. Con đường này là nối tiếp huệ mạng của Phật, hiến thân giúp cho chánh pháp trụ thế lâu dài, là chuyện tốt đẹp, là sự nghiệp to lớn, là chuyện tốt lành. Đi theo con đường này năm mươi chín năm, cũng chẳng phải là thuận buồm xuôi gió, thử thách cũng rất nhiều, nhưng vui sướng khôn sánh, dẫu gặp phải thử thách, vẫn rất sung sướng. V́ sao? Hiểu rơ ràng, rành rẽ nghiệp nhân quả báo, hiểu rơ rệt v́ sao mỗi lần có thử thách. Hằng ngày giảng kinh, hằng ngày đọc tụng, năm mươi chín năm chẳng hề gián đoạn. Quư vị nói xem có vui sướng, hạnh phúc lắm hay không? Chúng tôi sử dụng Internet [để hoằng pháp] khoảng chừng mười lăm năm, sử dụng Internet khá sớm, sử dụng [truyền h́nh] vệ tinh cũng đă tám năm rồi, từ ngày Nguyên Đán năm 2003 bắt đầu sử dụng vệ tinh. Những công cụ này phát huy tác dụng rất lớn, v́ chúng tôi giảng kinh và học tập tại nơi đây, đồng thời phát sóng, toàn cầu có thể thấy và thu được. Giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Phật độ kẻ hữu duyên”, những ai hữu duyên? Những người mở TV chọn đúng băng tần này đều là người hữu duyên. Họ dùng computer kiếm được địa chỉ trang nhà của chúng ta, đó là người hữu duyên. Người tiếp sóng, xem chương tŕnh rất nhiều. Do vậy, giúp đỡ hết thảy chúng sanh, nghèo, giàu, sang, hèn, đều phải giúp đỡ họ.

      “Ân điền” là cha mẹ. Trong Phật pháp c̣n có hộ pháp. Hộ pháp có ân với chúng ta. Nếu chẳng có nhiều người hộ tŕ như thế, chẳng có đông người giúp đỡ ngần ấy, chúng ta phát triển hết sức khó khăn. Phật pháp có thể truyền thừa hay không, chánh pháp có thể trụ thế lâu dài hay không, mấu chốt chẳng do ta, v́ ta chẳng có cách nào, mà ở nơi đâu? Nơi hộ pháp. Do vậy, công đức của người hộ pháp lớn hơn công đức của người hoằng pháp. Người hoằng pháp giống như giáo viên trong trường học, hộ pháp là hiệu trưởng. Ông ta tạo lập một đạo tràng ở đây, nếu chẳng mời quư vị, quư vị sẽ chẳng có cơ hội đến đây dạy học. Do ông ta bằng ḷng mời quư vị đến, nên quư vị có thể dạy một thời gian ở nơi đây, dạy một hai môn, đó là ân đức của họ. Mọi người nghe pháp ở nơi này, đạt được lợi ích nơi Phật pháp, là nhờ ai mà đạt được? Nhờ hộ pháp tạo lợi ích, phải biết điều này. Người xuất gia là Trụ Tŕ tự miếu, người tại gia là các vị cư sĩ chủ tŕ đạo tràng, như ở Mă Lai có nhiều vị hội trưởng Tịnh Tông Học Hội, Phật pháp có thể hưng vượng hay không ở nơi ấy là trách nhiệm của họ. Họ có kiến thức, liễu giải Phật pháp hưng hay suy, bồi dưỡng pháp sư giảng kinh, lễ thỉnh pháp sư giảng kinh đến đó giáo học hay giảng kinh, công đức thuộc về họ. Giống như quản lư trường học, điều hành trường học rất khá, chánh phủ khen thưởng th́ sẽ khen thưởng ai? Khen thưởng hiệu trưởng, chẳng khen thưởng giáo viên. Trường học hoạt động lôi thôi, phải bị trừng phạt th́ hiệu trưởng bị trừng phạt, cũng chẳng phải là giáo viên. Do vậy, những người giảng kinh, bất luận xuất gia hay tại gia, đều có thân phận là giáo viên, phải hiểu rơ ràng, minh bạch điều này. Không ai mời mọc, th́ làm như thế nào? Nói Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập Bát Niết Bàn, đă đi rồi, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng c̣n ở trong thế giới này nữa. Do không ai cầu thỉnh, nên Ngài đă đi rồi. Có người cầu thỉnh tức là hữu duyên, trụ thêm mấy năm nữa, chẳng trở ngại. Chẳng có duyên bèn lập tức ra đi, chẳng lưu luyến thế giới này. Người làm giáo viên tự tại dường ấy, có nơi nào cần đến đó dạy ḥng giúp đỡ chúng sanh khổ nạn th́ đại từ đại bi [đến đó giáo hóa]. Chẳng có chỗ nào để dạy bèn ra đi, văng sanh thế giới Cực Lạc ḥng thân cận A Di Đà Phật, bản lănh sâu xa. V́ thế, biết ân, báo ân, những vị hộ pháp đều có ân đức, giống như cha mẹ, phải tôn trọng họ!

      Thứ tư là “đức điền”, đức điền là Tam Bảo, “tam thừa hiền thánh”. Bất luận A La Hán, hay Bích Chi Phật, hoặc là Bồ Tát, bất luận tại gia hay xuất gia, đại đa số là người chủ tŕ đạo tràng. V́ lẽ đó, Phật pháp có thể hưng vượng, xă hội có thể an định, quốc gia có thể vững bền dài lâu, thế giới có thể ḥa b́nh, tam thừa thánh hiền có cống hiến to lớn, họ là những vị phụ trách đạo tràng. Điều thứ nhất là họ có thể lễ thỉnh những vị đại đức hữu tu hữu học, bất luận tại gia hay xuất gia, mời các vị ấy đến nơi ấy giảng kinh, giáo học, đó là chuyện thuộc về bổn phận của họ. Đồng thời, nếu những người ấy c̣n có thể tiến thêm bước nữa, chẳng phải chỉ là cần dạy học, mà c̣n muốn bồi dưỡng nhân tài kế tục, công đức của những người ấy sẽ thật to lớn, thật sự cứu văn Phật giáo. Như vậy có cần mở trường học hay không? Không nhất định. Thật sự phát hiện người tuổi trẻ chịu học hỏi, nhất định trước hết phải vun bồi tốt đẹp ba căn bản, tức là cũng giống như Khổng lăo phu tử, dạy dỗ đức hạnh trước hết. Quư vị thật sự có thể thực hiện Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên. Đệ Tử Quy gồm một trăm mười ba điều, Cảm Ứng Thiên là một trăm chín mươi lăm điều, quư vị đều có thể làm được, sau đấy sẽ thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo rất dễ dàng. Nếu là xuất gia, phải hành mười giới trong Sa Di Luật Nghi, hai mươi bốn môn oai nghi cũng phải thực hiện, nhưng chẳng có khó khăn ǵ, do trước đó, quư vị đă có căn bản đức hạnh tốt đẹp. Sau khi đức hạnh đă có căn bản, quư vị có thể chọn lựa một bộ kinh, thâm nhập một môn, thật sự có người hộ tŕ khiến cho quư vị thân tâm yên ổn, chẳng có ưu lự. Cúng dường quư vị áo, cơm, chỗ ở là được rồi, quư vị có chỗ cư trú an định, áo cơm được chiếu cố rất chu đáo là được rồi, chính ḿnh hằng ngày dụng công. Một người tu hành th́ một căn pḥng nhỏ là được rồi.

      Trong quá khứ, Hàn quán trưởng chiếu cố tôi. Tôi ở trong một căn pḥng nhỏ tại nhà bà ta, ở nhà bà ta suốt mười bảy năm, chẳng dễ dàng! Mỗi ngày, chuyện của tôi là đọc kinh, giảng kinh. Cơ sở giảng kinh và thính chúng đều do bà ta thay tôi lo liệu, v́ tôi tuổi trẻ, vừa mới ra giảng kinh, ai nhận biết quư vị? Ai đến nghe quư vị giảng? V́ thế, Hàn quán trưởng đi khắp nơi lo liệu, mời mọc các bạn bè, đạo hữu của bà [đến nghe], có khi là mười mấy người, có lúc hai mươi mấy người. Sau này, khi tôi giảng kinh thông thường gần như là năm, sáu mươi người nghe, chẳng gián đoạn. Mỗi tối giảng từ một tiếng đến một tiếng rưỡi, thông thường đa số là một tiếng rưỡi. Buổi tối giảng một tiếng rưỡi, thời gian ban ngày tôi dùng để đọc kinh, niệm Phật. Quư vị thấy đó là một tấm gương tốt đẹp, một vị cư sĩ, trong nhà tương đối khá giả, có nhiều pḥng bèn dành ra [một pḥng], quư vị chiếu cố một người, có thể chiếu cố mười năm th́ người [xuất gia] ấy bèn thành công. Tôi ở trong nhà Hàn quán trưởng mười bảy năm. Về sau, thính chúng đông hơn, mọi người bỏ ra một ít tiền, mua một giảng đường. Giảng đường ấy gần như to bằng cái studio này. Mua một giảng đường như thế, chẳng cần mượn giảng đường nữa. Chính ḿnh có một giảng đường như vậy, chúng tôi có nhiều thời gian giảng kinh hơn. Buổi sáng giảng, buổi chiều giảng, buổi tối giảng, vui sướng chẳng mệt. Giảng các kinh khác nhau, nên mỗi ngày giảng ba lần, thính chúng trong ba lần khác nhau, giống như mở lớp vậy, quư vị có thể dành ra thời gian đến nghe. Tôi đă từng có lúc giảng nhiều nhất, mỗi tuần giảng năm sáu loại [kinh luận khác nhau]. Tôi giảng kinh là do học với thầy Lư ở Đài Trung. Hiện thời, bồi dưỡng người giảng kinh thuận tiện rất nhiều. Tôi giảng kinh nhiều năm như thế, lưu lại băng ghi h́nh, ghi âm, đại khái là từ một vạn năm ngàn giờ trở lên, chẳng ít hơn một vạn năm ngàn giờ. Chủng loại cũng rất nhiều, chỉ cần chọn trong đó một thứ, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, thật sự có thể khổ học một loại trong mười năm, quư vị sẽ thành công. Lúc đó, người ấy xuất gia sẽ là đại pháp sư, tại gia cũng là đại cư sĩ. Người thật sự có tâm bồi dưỡng một, hai người [như vậy], công đức vô lượng vô biên, đó là chân thật. Bất quá, người như vậy cũng rất khó t́m, ai chịu buông xuống muôn duyên, bỏ ra mười năm quạnh quẽ, sau đấy mới thi đỗ thành danh? Bởi vậy, phương pháp th́ có, mà cũng hoàn toàn chẳng khó khăn, nhưng khó t́m người! Thật sự t́m được, hy sinh phụng hiến, v́ chánh pháp tồn tại lâu dài, v́ kế thừa gia nghiệp của Như Lai. Đó là phước điền hiểu theo nghĩa rộng, thật sự tu phước.

      Trong phần trước, “điều chúng sanh, tuyên diệu lư” là giúp người khác giác ngộ. Sau khi giác ngộ, sẽ dạy người ấy tích công đức, tu phước điền. Có trí huệ, có phước báo, sau đấy phải cứu khổ, cứu nạn, chẳng phải là quư vị hưởng phước mà là cứu khổ, cứu nạn. “Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ” (dùng các pháp dược, cứu chữa ba nỗi khổ), đó là độ chúng sanh. Chư Phật, Bồ Tát vĩnh viễn chẳng hề hưởng phước, hưởng lạc, chẳng có! Quư vị thấy trong Phật môn từ xưa đến nay, những vị cao tăng đại đức có hưởng phước hay không? Đối với các Ngài, giáo học là hưởng phước. Dẫu địa vị cao tới đâu đi nữa, trước kia, làm đến Quốc Sư, hoàng đế tôn vị ấy làm thầy, [nên gọi là] Quốc Sư, cuộc sống vẫn rất đơn giản, chẳng hề thay đổi. Những vị tu hành ấy quá nửa là ăn giữa Ngọ, rất nhiều! Cuộc sống hết sức đơn giản, v́ sao? Nêu gương cho người khác, mảy may ngạo mạn đều chẳng có! Chẳng phải là địa vị rất cao, bèn ngự cao chót vót, chẳng phải vậy, vẫn tiếp xúc với người nghèo khổ y như cũ, [những vị hành xử như vậy] rất nhiều, đấy là đức hạnh. Đối với bậc đại quan, nói theo cách bây giờ là những người thuộc tầng lớp cao trong xă hội, tiếp xúc họ bèn dùng trí huệ giúp họ cai trị quốc gia, qua lại với người bần cùng để giúp họ ĺa khổ được vui, b́nh đẳng giáo hóa. Đối với tam thừa hiền thánh, tam giáo, cửu lưu, hoàn toàn b́nh đẳng, các Ngài chẳng có phân biệt và chấp trước.

      V́ vậy, tiếp đó là lời chú giải như sau: “Chư Phật độ sanh, ứng bệnh dữ dược” (chư Phật độ chúng sanh, cho thuốc phù hợp chứng bệnh), giống như thầy thuốc chữa bệnh. Người ấy mắc bệnh ǵ, cần dùng thuốc ǵ để chữa trị, bèn cho thuốc đúng với căn bệnh. “Dược dụ Như Lai diệu pháp, bệnh dụ chúng sanh tật khổ” (thuốc ví như diệu pháp của Như Lai, bệnh ví như chúng sanh đau khổ). Thưa cùng quư vị, trong hiện thời, diệu pháp của Như Lai có thể chữa trị xă hội. Tuy tất cả hết thảy mọi người mắc bệnh khác nhau, nhưng thuốc một vị có thể giải quyết, đó là “phổ thế giáo dục” (giáo dục trọn khắp cơi đời). Phổ () là phổ biến, Thế () là thế giới, trọn khắp người đời phải nên tiếp nhận sự giáo dục ấy, tức là giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả. V́ sao? Những nỗi phiền phức xuất hiện trên cả thế giới hiện thời đều v́ thiếu những thứ giáo dục ấy. Vào thời cổ th́ có, tại Trung Quốc có, mà ở ngoại quốc, các thứ giáo dục tôn giáo cũng được, đều có thể đạt hiệu quả. Hiện thời, tại Trung Quốc, nền giáo dục ấy không được chú trọng, coi thường, bỏ sót, ngoại quốc th́ đang dần dần theo đuổi, đề cao khoa học, người tin tưởng tôn giáo ngày càng ít ỏi. Xă hội tôn sùng dục vọng, lợi lộc, nhiều nhân sĩ tôn giáo cũng bị dục vọng, lợi lộc nuốt chửng, đó là hiện tượng thấy rơ trước mắt. Họ cũng tranh danh trục lợi, gạt giáo dục tôn giáo sang một bên, chẳng c̣n học tập nữa. Đó là nhân tố khiến cho xă hội hiện tiền động loạn, mà cũng là nguyên nhân khiến cho địa cầu đổi khác. Nay chúng ta cứu văn xă hội, cứu vớt địa cầu, phải t́m lại những thứ ấy, khuyên dạy mọi người hăy khéo làm người, [nguyên nhân] toàn là do trong chuyện làm người đă xuất hiện vấn đề, liên lụy y báo là địa cầu của chúng ta cũng xuất hiện vấn đề.

      Tại Trung Quốc là giáo dục Nho, Thích, Đạo, tại ngoại quốc là giáo dục tôn giáo, thật sự có thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề này. Nhưng trong hiện thời, bất luận tại Trung Quốc hay ngoại quốc, bậc đại đức thật sự quá ít, chúng ta hăy nên biết tôn trọng và bồi dưỡng như thế nào. Đây là một chuyện khó khăn, hăy nên ghi nhớ chuyện này trong ḷng, hễ gặp duyên phận, có người như vậy, chúng ta phải quan tâm, chiếu cố, giúp đỡ, thành tựu người ấy. V́ thế, trong hiện tại, nếu chẳng có thầy chỉ dạy, nhưng thật sự có người như vậy, vun bồi vững vàng ba hoặc bốn căn cội, đó là cơ sở, nhất định yêu cầu người ấy phải làm được. Làm một năm! Chưa làm tṛn một năm, sẽ chẳng hộ tŕ người ấy, mời người ấy đi chỗ khác! Nếu trong một năm, [người ấy] thật sự làm được, chúng ta càng thêm lễ kính, đốc thúc người ấy. Phương pháp đốc thúc rất đơn giản: “Mỗi ngày hăy giảng cho chúng tôi nghe một tiếng rưỡi”, giảng cho ai nghe? Giảng cho quư vị nghe, chẳng cần có ai khác. Hoặc là người nhà của quư vị, cách mấy tuần họp lại, giảng cho quư vị nghe. Hằng ngày buộc người ấy phải học, mỗi ngày buộc người ấy phải giảng. Học mười năm, giảng mười năm, chẳng phải là đă thành tựu hay sao? Sau mười năm, sẽ đem người ấy giới thiệu với bên ngoài, t́m giảng đường để công khai giảng diễn bên ngoài, nhưng chưa đầy mười năm sẽ chẳng giảng bên ngoài. Đó là huấn luyện ǵ? Huấn luyện Nhẫn Nhục Ba La Mật cho người ấy. Người ấy dẫu có thông hiểu vẫn phải nhẫn nại mười năm. Nếu người ấy chẳng thể chịu đựng, đi ra ngoài giảng, giảng cũng khá lắm, kẻ cung kính người ấy đông đảo, kẻ cúng dường đông đúc, người ấy sẽ bị sảy chân, biến chất! Lại sa vào danh lợi, tức là chúng ta đă sai rồi! Do vậy, phải quan sát người ấy, thật sự có thể chịu khổ, thật sự có cảm giác gánh vác sứ mạng th́ mới có thể thành tựu.

      Như kinh Niết Bàn đă dạy: “Độ chúng sanh cố, vị thuyết vô thượng vi diệu pháp dược” (v́ độ chúng sanh mà giảng cho họ các pháp dược vô thượng vi diệu). Nói theo cách hiện thời, Độ () là giúp chúng sanh, góp sức cho chúng sanh. Chúng sanh có khổ, bị nạn, chúng ta phải giúp họ, tức là giới thiệu cho họ diệu pháp vô thượng rất sâu. Vô thượng vi diệu pháp dược là ǵ? Chính là bộ kinh này, bộ kinh này là vô thượng vi diệu pháp được đúng tiêu chuẩn. Như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Bát Nhă đều là đại kinh đại luận vô thượng vi diệu, có người chỉ dạy th́ chẳng có vấn đề ǵ, có thể học tập, nhưng nếu chẳng có ai chỉ dạy, sẽ hết sức khó khăn. Không ai chỉ dạy th́ chúng ta làm như thế nào? Chúng ta chọn bộ kinh này, kinh này được lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập tốt đẹp, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải cặn kẽ, tạo thuận tiện cho chúng ta. Hai vị ấy đều là người cận đại; do đó, chúng tôi phát tâm giảng bản Chú Giải của lăo cư sĩ một lượt, coi như tôi báo ân cụ. Lúc cụ tại thế, chúng tôi là bạn già, hằng năm tôi sang Bắc Kinh đôi ba lượt để thăm cụ. Cụ khuất bóng, bạn già ở Bắc Kinh chẳng c̣n nữa, nên tôi không sang đó. Thuở trước, tôi siêng năng, lẹ làng sang đó, v́ lẽ nào? Do có vị lăo hữu ấy, chí đồng đạo hợp. Hoằng dương bản hội tập này, tức bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, tại hải ngoại một ḿnh tôi, trong nước là một ḿnh cụ Hoàng. Trong ngoài nước cũng chẳng có kẻ thứ hai giảng bộ kinh này, chúng tôi được gặp gỡ, đúng là khó có! Ở Mỹ, chúng tôi mới liên lạc với nhau. Cụ ở Mỹ một tháng, chúng tôi mới [có cơ hội] quen biết. Sau này, cụ chẳng tiện xuất ngoại, c̣n chúng tôi trở về Trung Quốc thăm viếng khá thuận tiện, nên tôi thường đến thăm cụ. Cụ viết bộ chú giải này chẳng đơn giản, hy vọng bộ kinh này và bản chú giải này có thể lưu truyền đến chín ngàn năm sau trong thời Mạt Pháp. Trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, các đồng học Tịnh Tông sẽ nương theo pháp môn này mà đắc độ, chúng ta có thể tin tưởng, có ḷng tin như vậy. Lần này, do gặp phải tai nạn nhiều ngần ấy, tôi ngưng giảng kinh Hoa Nghiêm. Giảng viên măn bộ kinh này, tôi lại giảng tiếp kinh Hoa Nghiêm, hy vọng bộ Diễn Nghĩa này sớm có ngày được lưu thông. Diễn Nghĩa là chú giải của chú giải. Năm xưa, tôi có soạn một bản khoa phán cho bản hội tập này. Bản ấy là phần khoa hội và mi chú của kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, lời mi chú do lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam chú giải. Thuở ấy, lăo cư sĩ Triệu Phác Sơ c̣n sống, cụ là đồng hương của tôi[1], và cũng là bậc trưởng bối, đối xử với tôi vô cùng tốt. V́ thế, mỗi lần sang Bắc Kinh, chúng tôi nhất định đều gặp nhau. Những vị lăo nhân này đều đă khuất, tôi cũng trở nên đặc biệt cô đơn. Sau khi soạn xong Khoa Phán, tôi tặng cho cụ Triệu Phác Sơ một bản, cụ trông thấy vô cùng hoan hỷ, bảo: “Bản này hay lắm, một bản hội tập hay như thế, có Khoa Phán hoàn chỉnh như thế, lại c̣n có bản chú giải của cụ Niệm Tổ, người học tập sau này quá thuận tiện”. Vô thượng vi diệu pháp dược chính là nói đến bộ kinh này và bản chú giải này!

      Tiếp đó, lại giảng về Tam Khổ: “Tam Khổ giả, nhất, Khổ Khổ, do khổ sự chi thành, nhi sanh khổ năo giả” (Tam Khổ: Một là Khổ Khổ, do chuyện khổ tạo thành, bèn sanh khổ năo). Đối với chuyện khổ, trong kinh đức Phật dạy Bát Khổ, trước hết là bốn thứ Sanh, Lăo, Bệnh, Tử. Sanh, Lăo, Bệnh, Tử mỗi cá nhân đều chẳng thể tránh được, nhưng chúng ta quên hết Sanh Khổ. Khi quư vị được sanh ra, khổ lắm, mẹ sanh quư vị ra. Nếu chúng ta đă quên hết th́ cũng chẳng có cách nào thấu hiểu, nhưng quư vị có thể chú tâm quan sát trẻ nhỏ sanh ra là như thế nào? Sanh ra bèn đau khổ. V́ sao trẻ nhỏ khóc? Khổ! Khổ quá nên nó mới khóc, quư vị thấy có đứa trẻ nào sanh ra bèn cười ha hả hay không? [Nếu cười], tức là nó chẳng khổ, đă vui sướng rồi! Quư vị biết lúc sanh ra, trong kinh Phật đă nói: “Như phong đao giải thể” (như bị đao gió xẻ thân). Khi nó rời khỏi thân mẹ, thân thể nó da thịt non nớt, cảm thấy gió thổi vào giống như bị đao cắt. Do đó, nó khổ sở, đau khổ, từ từ mới thích ứng. Đó là Sanh Khổ. Lăo Khổ, quư vị vẫn chưa già, nhưng thấy người già, mắt đă quáng, tai đă lăng, làm ǵ cũng chẳng thuận tiện. Nếu chẳng có ai chăm sóc, quư vị biết người ấy tuổi già đáng thương lắm. Tôi hết sức quan tâm chuyện này, tôi đến khá nhiều nơi trên các quốc gia, mỗi khi đến một nơi nào, điều thứ nhất tôi muốn thấy là sự nghiệp phước lợi dành cho người già ở nơi ấy. Tôi đến tham quan sự nghiệp phước lợi dành cho người già của họ, tức là viện dưỡng lăo. Có những quốc gia khá lắm, quốc gia nuôi dưỡng người già, nước Mỹ đứng đầu về chuyện này. Xưa kia, Mỹ có tiền, là giàu nhất trên toàn thế giới. Họ nêu gương, cũng có không ít quốc gia học theo. Hiện thời, Mỹ đă nghèo, sự nghiệp phước lợi người già là một gánh rất nặng đối với họ, nhưng họ cũng chẳng thể phế trừ. Nếu phế trừ, dân chúng sẽ không bỏ phiếu cho họ nữa, không có ai dám phế trừ, nên chuyện này vẫn tiếp tục kéo dài.     

      Theo như tôi thấy, Úc Châu thực hiện sự nghiệp phước lợi cho người già tốt nhất trên cả thế giới. Chủ yếu là v́ đất Úc Châu quá to, đất đai chẳng đắt đỏ, cho nên dưỡng lăo tại Úc quả thật giống như sống trong công viên. Những quốc gia khác trên thế giới chẳng thể sánh bằng hoàn cảnh vật chất ấy. V́ sao? Đất đai chẳng đắt đỏ, mua đất rất dễ dàng, các thiết bị vô cùng tốt đẹp. Thuế tại Úc rất nặng, nhưng chính phủ chăm sóc dân chúng rất chu đáo, thật sự làm được việc. Nhưng điều thiếu sót là cuộc sống tinh thần, đời sống tinh thần của người già rất đáng thương. Xem kỹ những người già, tán chuyện gẫu với họ, họ hết sức hoan hỷ, [do thường là] không có ai nói chuyện phiếm với họ. Nhất là sống tại đó, các sắc dân khác biệt, quốc tịch khác nhau, ngôn ngữ văn hóa, thói quen ẩm thực đều khác nhau, nên rất khổ năo. Sau khi chúng tôi thấy vậy, bèn suy nghĩ: Trong viện dưỡng lăo, từ viện trưởng cho đến tất cả nhân viên dưới quyền, nếu đều có thể tiếp nhận văn hóa và giáo dục hiếu đạo của Trung Quốc, đối đăi với những cụ già ấy như cha mẹ của chính ḿnh, có tâm hiếu kính, th́ do công đức đă tích tập của nhóm người ấy, trong tương lai, ai nấy đều sanh về thiên đường, tích lũy công đức to lớn mà! Người b́nh phàm tu phước chẳng dễ dàng, nhưng phục vụ tại viện dưỡng lăo, tu phước rất dễ dàng, coi người già như cha mẹ của chính ḿnh, dùng tâm hiếu kính để đối đăi. Những nhân viên ở đấy đều được huấn luyện, đều đă trúng tuyển khảo hạch, chăm sóc các cụ già chu đáo, nhưng chẳng có tâm hiếu thuận, coi đó như là công chuyện phải làm, chẳng có ư vị t́nh người, thiếu sót điều này!

      Khi xưa, ông Lục Khắc Văn (Kevin Michael Rudd)[2] được bầu làm Thủ Tướng Úc, tôi đề nghị, sự quen biết giữa ông ta và tôi cũng khá, những nhân viên trong viện dưỡng lăo nhất định phải thực hiện hiếu đạo. Ông ta cổ vũ tôi điều hành một viện dưỡng lăo để làm mẫu, làm gương. Sau khi tiến hành tốt đẹp, sẽ phổ biến trên toàn quốc, đó là biện pháp tốt đẹp. Hiện thời, làm bất cứ chuyện ǵ, nói theo người Trung Quốc, nêu gương rất quan trọng. Chúng ta thường nói “nêu gương rất quan trọng”, quư vị làm cho người ta thật sự trông thấy, họ liễu giải chuyện ấy tốt đẹp, phải nên làm theo cách thức như vậy. Nhất là đem giáo dục nhân quả nói với họ, họ thật sự thông hiểu, sẽ là tu đại phước báo. Người học Phật chăm sóc người già, tương lai sẽ thành Phật, quyết định văng sanh. Người tín ngưỡng tôn giáo chắc chắn sẽ sanh lên thiên đường. Đối với người chẳng có tín ngưỡng tôn giáo, quư vị chăm sóc người già là vô úy bố thí, bản thân quư vị sẽ đạt quả báo ǵ? Khỏe mạnh, sống lâu. Tu ba thứ bố thí nơi đó đều dễ dàng! Quư vị phục vụ họ là Nội Tài Bố Thí. Quư vị thường chuyện tṛ với họ, thường bầu bạn với họ, đó là Vô Úy Bố Thí và Pháp Bố Thí. Quư vị khiến cho tâm lư họ vui vẻ, chẳng cảm thấy cô đơn, [cảm thấy] viện dưỡng lăo ấy giống như gia đ́nh của chính ḿnh, các nhân viên, người phục vụ trẻ tuổi như vậy đều giống như con cái hoặc cháu chắt của chính ḿnh, họ sẽ vui sướng lắm! Phước báo ấy to nhiều! V́ thế, mở viện dưỡng lăo là sự nghiệp ǵ? Sự nghiệp của Phật, Bồ Tát. Mở viện dưỡng lăo là sự nghiệp vô thượng phước điền. Chỉ cần điều hành tốt đẹp một viện dưỡng lăo, quư vị có thể tạo ảnh hưởng rất nhiều, thậm chí trong tương lai mở rộng đến toàn thế giới. Người tiến hành sự nghiệp như vậy là thần thánh, Phật, Bồ Tát. Quư vị chẳng thể nói: “Các cụ! Tôi chăm nom quư vị ăn cơm, thay quần áo, chăm lo cuộc sống hằng ngày của các cụ [là được rồi]”, chưa đủ! Quư vị phải biết trong tâm họ đau khổ lắm! V́ trong viện dưỡng lăo, nói cách khác, cứ mỗi tuần thường có một hai cụ già qua đời, bị khiêng đi, họ trông thấy bèn cảm nhận như thế nào? Chờ đợi ở đấy, chờ có ngày sẽ đến lượt họ. Ngồi ăn để chờ chết, quư vị thấy cái cảm giác ấy khó chịu lắm! Chúng ta trông thấy tê tái cơi ḷng, thật sự muốn giúp họ. Khi ông Lục Khắc Văn làm Thủ Tướng, đă thúc giục tôi tiến hành ngay lập tức, hiện thời ông ta đă xuống chức, tôi cũng chẳng muốn làm nữa! Chánh phủ phải có tâm, phải có cái tâm ấy, khi thật sự làm, chánh phủ phải khen thưởng. Hễ làm tốt, có thể phát động toàn quốc, có thể phát động cả thế giới, khiến cho người già trên cả thế giới đều được chăm nom rất tốt đẹp. Quư vị nói xem công đức ấy to nhiều ngần nào? V́ thế, đầu tiên, trọng yếu nhất là từ viện trưởng cho đến nhân viên viện dưỡng lăo, tất cả mọi người đều phải tiếp nhận giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức, đặc biệt là giáo dục nhân quả. Họ hiểu nhân quả, sẽ có thể toàn tâm toàn lực dốc sức, biết đó là cái nhân tốt, trong tương lai sẽ kết thành cái quả tốt đẹp, quả ấy tốt đẹp chẳng thể nghĩ bàn. Quư vị đến chỗ nào để t́m được cơ hội gieo phước điền như vậy? Viện dưỡng lăo là phước điền, là phước điền thật sự. Chúng ta đến thăm nơi phước điền tốt đẹp như thế, đáng tiếc là họ chẳng biết gieo phước. Mỗi ngày đều ở đó mà chẳng biết gieo phước. Hiếu kính người già là gieo phước, nhưng họ chẳng biết điều ấy, thật đáng tiếc!

      Nói đến sanh lăo bệnh tử khổ, không ai có thể tránh được! Trừ những điều này ra, c̣n có “oán tăng hội khổ” (khổ v́ oán ghét mà phải gặp gỡ). Trong hoàn cảnh nhân sự, quư vị gặp kẻ oan gia đối đầu, trông chẳng vừa mắt, chẳng muốn gặp hắn, nhưng hằng ngày đều phải chạm mặt, quư vị nói có phiền phức hay không? Học hành trong nhà trường, đứa bạn ta không ưa mà thầy cứ hết lần này tới lần khác xếp nó ngồi chung một chỗ, ngồi cùng một bàn, oán tăng hội đấy! Kẻ ta ưa thích thường phải xa cách, đó là “ái biệt ly”, kẻ yêu thích chẳng thể ở cùng một chỗ. Loại thứ ba là “cầu bất đắc”, tức là trong tâm chúng ta mong cầu, ham muốn, nhưng làm chẳng được, [đó là] nỗi khổ Cầu Bất Đắc. Ba loại lớn này, hiện thời mỗi cá nhân đều chẳng có cách nào tránh thoát. Loại cuối cùng là “Ngũ Ấm xí thịnh khổ”, chẳng phải là bên ngoài, mà là trong tâm. Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức của chúng ta. Nói theo cách bây giờ, chính là nhục thể và tinh thần của chúng ta chịu đựng nỗi khổ ǵ? Phiền năo, ưu lự, vướng mắc, những thứ ấy. “Xí thịnh” (熾盛) là giống như lửa cháy rất mănh liệt, niềm vui của quư vị lấy đâu ra? V́ thế, chúng được gọi là Khổ Khổ. Trong Phật pháp nói “bát khổ giao tiên” (tám nỗi khổ chen nhau nung nấu) là nói đến Khổ Khổ.

      Loại thứ hai là Hoại Khổ. Phật pháp đem ba loại khổ này phối hợp với tam giới. Trong Dục Giới, ba loại khổ ấy đều có, [tức là] Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ thảy đều có. Nếu quư vị đắc Thiền Định, do đắc Thiền Định sẽ sanh vào Sắc Giới Thiên. Trong Sắc Giới Thiên chẳng có Khổ Khổ, họ chẳng có tám nỗi khổ như đă nói trong phần trước. Hễ có dục th́ tám nỗi khổ ấy đều có. Chẳng có dục, tám nỗi khổ ấy chẳng c̣n. Dục Giới [Thiên] cao hơn chúng ta. Sanh vào Dục Giới Thiên chẳng phải là đầu thai, mà là hóa sanh, nên chẳng có nỗi khổ năo về thân t́nh. Họ hóa sanh, tức biến hóa. Sắc Giới có mười tám tầng trời thuộc về Tứ Thiền, chẳng có tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, chẳng có những điều ấy, nên chư thiên Sắc Giới chẳng ngủ nghê, tinh thần vĩnh viễn sung măn, chẳng bị mệt mỏi. Cơi trời ấy tốt đẹp, chứ Dục Giới Thiên chưa được! Dục Giới Thiên vẫn có dục vọng, nhưng nó gồm sáu tầng trời. Càng lên cao, dục vọng càng nhẹ mỏng. Tứ Vương Thiên gần như chẳng khác ǵ nhân gian chúng ta, tuy lợt lạt hơn chúng ta đôi chút, nhưng chẳng lợt lạt nhiều lắm! Đao Lợi Thiên và chúng ta chênh lệch rất lớn, như chúng ta thấy, họ dục vọng cũng rất ít, tâm cũng dần dần thanh tịnh, càng lên cao càng lợt lạt, nhưng họ có Hoại Khổ. Hoại Khổ là ǵ? Họ có thọ mạng, khi thọ mạng đă hết, vẫn phải chết. Thọ mạng rất dài, tuy rất dài vẫn có ngày kết thúc. Khi thọ mạng đă hết, họ vẫn phải chết, lúc chết nỗi khổ mới hiện tiền, khổ năo hiện tiền. Một người lúc chết bèn cảm thấy khổ năo chẳng phải là chuyện tốt, v́ sao? Kẻ ấy sẽ đọa lạc xuống dưới. Lúc lâm chung, tâm thanh tịnh, chẳng có cảm thụ khổ hay sướng, sẽ tiến cao hơn, sẽ thăng lên, chẳng đọa lạc, đó là công phu tu tŕ. Nếu người thuộc Sắc Giới Thiên có công phu Thiền Định sâu, sẽ tiến lên không ngừng. Sắc Giới có mười tám tầng trời, dần dần tiến cao hơn, đó là chuyện tốt. Nhưng nếu lúc hết thọ mạng, đối với hoàn cảnh cư trụ và sinh hoạt vẫn c̣n lưu luyến, sẽ bị phiền phức to, vị trời ấy sẽ đọa lạc, sẽ thọ sanh trong tầng thấp hơn, chẳng thể sanh lên cao hơn. Đó là có Hoại Khổ. Loại thứ ba là Hành Khổ, có nghĩa là đổi dời. V́ thế, Sắc Giới có hai loại khổ. Đổi dời là ǵ? Chẳng thể ngừng được, Hành là chẳng dừng được!

      Đến Vô Sắc Giới Thiên, chẳng có Hoại Khổ v́ Vô Sắc Giới chẳng có thân thể. Sắc Giới có Sắc, chẳng có Dục. Vô Sắc Giới ngay cả thân thể cũng chẳng có, chẳng cần đến thân thể. Lục đạo đều là phàm phu, chúng ta có thể gọi [chư thiên trong Vô Sắc Giới] là “phàm phu cao cấp”, phàm phu cao cấp chẳng cần tới thân thể. Vào thời cổ, tại Trung Quốc, từ hơn hai ngàn năm trước, quan niệm này đă được Lăo Tử nhắc tới. Quư vị đọc Đạo Đức Kinh sẽ thấy Lăo Tử đă nói như thế này: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân” (ta có mối lo nghĩ to lớn v́ ta có thân). Ngài nói chính ḿnh có nỗi ưu tư rất lớn, nỗi ưu tư ấy là ǵ? Ta có thân thể, chẳng có thân thể sẽ tốt lắm! Quan niệm ấy của Lăo Tử là quan niệm của Vô Sắc Giới, chẳng có thân thể thật tốt, có thân người sẽ có nhiều phiền phức. Sắc Giới Thiên c̣n có thân thể, nên họ vẫn phải có nhà cửa để cư trụ. Vô Sắc Giới Thiên thân thể đều chẳng có, cũng chẳng cần đến nhà cửa, họ chẳng cần! Vô Sắc Giới, nếu nói thông tục, sẽ là “linh giới”, tức là nơi ở của linh hồn. Họ chẳng có bất cứ hiện tượng vật chất nào. Nói cách khác, nó chỉ có hiện tượng tinh thần, chẳng có hiện tượng vật chất. Vật chất bị biến hoại, tinh thần vĩnh viễn chẳng thay đổi. Họ vẫn có nỗi khổ ǵ? Họ cũng có thọ mạng, thọ mạng chính là công phu Thiền Định của họ. Cảnh giới cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (Naivasamjñānāsamjñāyatana). Vô Sắc Giới có bốn tầng, tầng cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, công phu Thiền Định của họ là tám vạn đại kiếp. Một đại kiếp chính là tinh hệ, tức thái dương hệ của chúng ta, trải qua một lần thành - trụ - hoại - không. Nói cách khác, sau khi thái dương hệ này hư hoại, sẽ dần dần trở lại như cũ, lại có thành - trụ - hoại - không. Tám vạn lần [thành - trụ - hoại - không như thế], quư vị nói xem thọ mạng ấy dài cỡ nào! Nhưng vẫn có một ngày, cho đến lúc ấy, họ mất công phu Thiền Định, do mất đi nên sanh phiền năo. V́ sao? Họ vốn nghĩ chính ḿnh đă thành Phật, tưởng chính ḿnh là vĩnh hằng bất sanh, bất diệt. Bất sanh bất diệt là Đại Niết Bàn. Họ cho rằng chính ḿnh đă chứng đắc Đại Niết Bàn, thật ra là hiểu lầm, chẳng thật sự chứng đắc. Công phu Thiền Định mất đi tức là thọ mạng của họ đă tới, khi ấy, họ rất phiền năo: “Ta đă chứng đắc Đại Niết Bàn, v́ sao c̣n có sanh tử?” Do vậy, bắt đầu hoài nghi và hủy báng giáo huấn của các bậc thánh hiền: “Các vị thánh hiền gạt ta, ta đă đạt đến cảnh giới này, cớ sao chẳng giống như họ đă nói?” Hễ hoài nghi, hủy báng như thế, tội ấy rất nặng. Kẻ ấy chẳng biết chính ḿnh sai quấy, lại c̣n toan hủy báng thánh hiền. Người Hoa nói “bà đắc cao, suất đắc trọng” (trèo cao, ngă đau), từ chỗ cao tột đỉnh rơi xuống chỗ thấp nhất là địa ngục A Tỳ. Tội hủy báng thánh hiền phải đọa địa ngục A Tỳ. Nói cách khác, chư thiên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên khi đă hết tám vạn đại kiếp, chẳng có ai không đọa địa ngục.

      Điều này khiến cho chúng ta suy sâu, nghĩ chín, chúng ta học đạo phải hiểu rơ, có nên phát tâm sanh vào thiên đạo hay không? Chớ nên! Sanh vào thiên đạo là chọn lựa sai lầm. V́ sao? Chẳng rốt ráo! Tuy phước báo của chư thiên to hơn chúng ta, thọ mạng dài hơn chúng ta, nhưng nếu chúng ta thấy con phù du trên mặt nước, từ lúc sanh ra cho đến khi nó chết đi chỉ có mấy giờ, loài người chúng ta thọ mấy chục năm, chư thiên nh́n chúng ta có khác ǵ chúng ta nh́n loài phù du hay không? Thọ mạng của chúng ngắn ngủi ngần ấy! Xác thực là như thế, đừng nói là Vô Sắc Giới Thiên, chúng ta nói tới Dục Giới Thiên th́ đă khôn sánh rồi! Đao Lợi Thiên trong Dục Giới Thiên chẳng kể là cao, là tầng thứ hai. Một ngày trong Đao Lợi Thiên bằng một trăm năm trong nhân gian chúng ta. Nếu loài người chúng ta có thể sống một trăm tuổi th́ chư thiên Đao Lợi sẽ thấy quư vị sáng sanh tối chết, chư thiên Đao Lợi thấy nhân gian [như vậy]. Một ngày trong Dạ Ma Thiên bằng hai trăm năm trong nhân gian. Đâu Suất Thiên, hiện thời Di Lặc Bồ Tát đang trụ nơi đó, một ngày của họ bằng bốn trăm năm trong nhân gian. Nếu chúng ta dùng hai mươi bốn giờ để xem, chư thiên Đâu Suất thấy nhân gian chúng ta thọ một trăm tuổi bằng mấy giờ [của họ]? Sáu tiếng đồng hồ. Quư vị phải biết chân tướng sự thật này, chẳng có hứng thú sanh thiên, chẳng làm chuyện ấy! Có công đức sanh thiên và tu vi như thế, dùng những thứ ấy để sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng có vấn đề ǵ, v́ sao chẳng sanh về thế giới Cực Lạc? Đến thế giới Cực Lạc mới thật sự giải quyết vấn đề. Nơi ấy mới thật sự là vĩnh sanh (sống đời đời), vô lượng thọ! Thật đấy, vô lượng thọ chẳng giả, thật sự là vô lượng thọ. Trở về tự tánh, thật sự vĩnh viễn chẳng có sanh diệt.

      Các lư luận và phương pháp giảng trong bộ kinh này đều nhằm hướng dẫn chúng ta văng sanh Tịnh Độ, thân cận A Di Đà Phật, chứng đắc Đại Bát Niết Bàn chân chánh, chẳng giống như chư thiên cơi trời Phi Tưởng tưởng lầm cảnh giới ấy (cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định) là Niết Bàn, họ lầm rồi. Đă sai lại chẳng nhận lỗi, trách móc Phật, Bồ Tát, tội ấy nặng nề. Đă lầm mà thật sự nhận lỗi, vẫn chưa đến nỗi đọa địa ngục, nhưng chắc chắn là họ sẽ đọa xuống dưới, v́ chẳng có tầng nào cao hơn nữa, họ đă hưởng hết phước, thời gian họ tu Định đă hết rồi. Công phu Thiền Định mất đi, chắc chắn bị đọa xuống, nhưng chẳng đến nỗi đọa địa ngục A Tỳ, thường là có thể đọa lạc trong nhân gian, từ từ tu lại! Từ chỗ này, chúng ta phải nghĩ: Đức khiêm hư của con người là trọng yếu. Biết lỗi phải sám hối, chớ nên chấp trước, điều này rất trọng yếu. Chư Phật, Bồ Tát là bậc tu hành chứng quả từng trải, các Ngài chẳng lừa gạt chúng ta. Chẳng có lư do ǵ để các Ngài gạt gẫm chúng ta! V́ sao? Chứng đắc cảnh giới ấy liền biết hết thảy chúng sanh trọn khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh có quan hệ ǵ? Nhất thể. Lẽ nào tự ḿnh gạt gẫm chính ḿnh? Há có lẽ ấy? Nói đến nhất thể th́ cũng là nói tới quan niệm luân lư được giảng trong Phật giáo. Luân lư là nói về quan hệ, thật sự nói đến mức viên măn rốt ráo. Tổ tiên Trung Quốc nói đến luân lư th́ chỉ nói đến con người, bảo: “Hễ là người, đều phải yêu thương”, trọn chẳng nói đến động vật. Do vậy, luân lư kiểu ấy tuy tốt đẹp, nhưng chưa viên măn. Luân lư Phật pháp nói viên măn, nói đến cuối cùng là dạy chúng ta: Hết thảy chúng sanh trọn khắp pháp giới hư không giới, kể cả núi, sông, đại địa, cây cối, hoa cỏ có cùng một Thể, một Pháp Thân với chính ḿnh! Luân lư ấy đă được giảng tới mức cùng tột, giảng đến rốt ráo viên măn, đạo đức được giảng đến mức rốt ráo viên măn, nhân quả giảng đến mức rốt ráo viên măn, nên mới biết Phật pháp thù thắng, biết Phật pháp vi diệu, hy hữu khó gặp! V́ vậy, “Hành giả, thiên lưu chi nghĩa. Do nhất thiết chi thiên lưu vô thường, nhi sanh khổ năo giả” (Hành có nghĩa là đổi dời. Do hết thảy đổi dời, vô thường, nên sanh khổ năo), đấy là sự khổ năo của chư thiên trong Vô Sắc Giới Thiên. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới chỗ này.

 

Tập 110

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm hai mươi chín, xem từ giữa ḍng thứ hai từ dưới đếm lên:

      “Gia Tường Sớ vân: Tam hữu chi khổ (tức tam giới sanh tử), cố vân tam khổ. Chân Giải vị ‘Tường thích vi ổn’ (chỉ Gia Tường sư chi thích cánh vi ổn thỏa)” (Gia Tường Sớ viết: “Do [dựa trên] các nỗi khổ trong Tam Hữu (tức tam giới sanh tử) mà nói là Tam Khổ”. Sách Chân Giải nhận định: “Tường thích vi ổn”, ư nói cách giải thích của ngài Gia Tường rất ổn thỏa), ổn trọng, thỏa đáng. Trước hết, chúng ta nói đến Tam Hữu. Đây là danh từ Phật học. Tam là tam giới, theo lời chú thích trong ngoặc đơn, chính là Dục Giới Hữu, Sắc Giới Hữu, Vô Sắc Giới Hữu, nên gọi là Tam Hữu. Hữu () là ǵ? Có nhân. Có nhân, đương nhiên có quả báo. Hữu ở đây là có nhân. Chúng ta có cái nhân Dục Giới, gặp duyên, hiện tượng Dục Giới bèn hiện tiền. Sắc Giới là phân biệt, Vô Sắc Giới là vọng tưởng, kinh Hoa Nghiêm nói là “chấp trước, phân biệt, vọng tưởng”. Đương nhiên [trong tam giới] ba thứ ấy đều có, chỉ là xét coi thành phần nào nhiều nhất [trong mỗi cơi]. Dục Giới chấp trước vô cùng nghiêm trọng, lại c̣n kèm thêm phân biệt và vọng tưởng, đó là cái nhân của Dục Giới. Sắc Giới chấp trước nhẹ nhàng, nhưng phân biệt khá nặng, đó là Sắc Giới. Tuy nói khá nặng, vẫn nhẹ hơn Dục Giới rất nhiều, rốt cuộc người ta ở trong mười tám tầng trời của Sắc Giới. Vô Sắc Giới hoàn toàn là mê hoặc, tức là vọng tưởng, nên họ chưa thể giác ngộ, chưa thể vượt thoát tam giới. Tam giới là lục đạo, vượt thoát tam giới cũng là vượt thoát lục đạo luân hồi. Nói theo Phật pháp, chúng là Kiến Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền năo. Ba thứ phiền năo ấy đều trọn đủ nên Tam Hữu đều khổ, quả báo ở trong tam đồ lục đạo, rất khó vượt thoát. Có thể nói là chẳng gặp Phật pháp th́ về căn bản là chẳng thể nào vượt thoát. Trong các tôn giáo có giáo dục rất tốt, quá nửa là dạy quư vị đoạn ác tu thiện. Thật sự có thể đoạn ác tu thiện th́ trong lục đạo chỉ có thể giữ sao cho chẳng đọa trong tam ác đạo, luân chuyển trong hai đường trời - người, trạng huống ấy vẫn tốt hơn trong tam ác đạo rất nhiều, bởi đó là phước báo nhân thiên. Phước nhất định phải do chính ḿnh tu. Một đoạn kinh văn dài trong phần trước nhằm dạy chúng ta tu phước. Tu phước c̣n phải có trí huệ, có trí huệ th́ quư vị mới nhận biết phước điền thật sự. Nếu quư vị chẳng nhận biết phước điền thật sự, ngỡ giả là thật, không chỉ chẳng gieo phước, mà c̣n gây tạo tội nghiệp, lầm mất rồi! V́ vậy, trí huệ rất trọng yếu. Kinh Đại Thừa c̣n gọi ba thứ phiền năo ấy là Kiến Tư Thập Sử, toàn là nói đến chấp trước, là một vấn đề nghiêm trọng trong lục đạo. Kiến () là năm loại sai lầm to lớn trong cách nh́n, Tư () là tham, sân, si, mạn, nghi, năm thứ ấy là tư tưởng sai lầm, tạo thành nghiệp nhân sanh tử trong tam giới, đó là các nỗi khổ trong Tam Hữu. Đối với cách giải thích này của ngài Gia Tường, pháp sư Đạo Ẩn của Nhật Bản cũng khẳng định cách giải thích ấy rất hay.

      Chúng ta xem phần kế tiếp: “Cái trừ Tam Hữu sanh tử chi khổ, cánh hợp Tịnh Tông chi chỉ” (Bởi lẽ, trừ bỏ nỗi khổ sanh tử trong Tam Hữu càng hợp với tông chỉ của Tịnh Tông), [nói về] tông chỉ tu học của Tịnh Độ Tông chúng ta. “Chân Giải thích kinh văn viết: Như Lai đại y vương, năng tri kỳ bệnh, ứng bệnh dữ dược, trị Tam Hữu chi khổ. Bệnh hữu chúng đa, pháp dược diệc đa, cố vân chư pháp dược” (Sách Chân Giải giải thích kinh văn như sau: “Như Lai đại y vương biết các bệnh, ứng theo căn bệnh mà cho thuốc để trị nỗi khổ trong Tam Hữu. Do có nhiều loại bệnh, nên pháp dược cũng nhiều. V́ thế, nói là chư pháp dược”), đây là một đoạn giải thích trong sách Chân Giải. Như Lai là nói hết thảy chư Phật đều gọi là Như Lai. Sánh ví chúng sanh trong lục đạo và trong mười pháp giới giống như các bệnh nhân. Trong bốn thánh pháp giới, bệnh nhẹ hơn một chút, chúng sanh trong lục đạo bị bệnh rất nghiêm trọng, vô cùng nghiêm trọng. Những vị ấy biết hết thảy chúng sanh mắc bệnh ǵ, chư Phật Như Lai biết, v́ sao các Ngài biết? Các Ngài đă kiến tánh, mấu chốt của căn bệnh ở chỗ nào, không ǵ chẳng biết. Chỉ cần kiến tánh th́ không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể. Quư vị biết cái gốc bệnh của họ ở chỗ nào, bèn ứng theo chứng bệnh mà cho thuốc. Uống thuốc vào, hết bệnh, thật sự chữa lành bệnh. V́ thế, [nói là] “ứng bệnh dữ dược”. Toàn là tỷ dụ chúng sanh lắm nỗi mê hoặc, lắm tập khí phiền năo, nên tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp. Những ǵ quư vị đă tạo nhất định phải thọ báo, chẳng phải là “tạo rồi bèn hết chuyện!” Đức Phật dạy chúng ta tu pháp môn sám hối, tội từ tâm khởi th́ vẫn phải dùng tâm để sám. Sám trừ nghiệp chướng, tội bèn tiêu. Tội đă tiêu, có phải là nghiệp chướng chẳng c̣n nữa hay không? Không luôn luôn là như thế! V́ sao? Trong tâm chúng ta đă chẳng c̣n nghiệp chướng, nhưng ta tổn thương, làm hại các chúng sanh, họ c̣n có nghiệp chướng hay không? Nếu họ vẫn c̣n có nghiệp chướng, sẽ ghi hận, oán cừu chẳng báo chẳng được! Ta tuy thành Phật, thành Bồ Tát, vẫn là đối tượng báo cừu của họ.

      Phật, Bồ Tát có phải chịu quả báo hay không? Phải! Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta thị hiện, chúng ta phải hiểu rơ ràng chân tướng sự thật này; nhưng các Ngài thọ báo chẳng giống như chúng ta thọ báo, chúng ta thọ báo là oán hận, chẳng biết trong quá khứ đă tổn thương, làm hại người ấy, quên sạch chuyện quá khứ! Đời này, người ấy đến hại ta, ta không phục, ta vẫn muốn báo thù. Đó là ǵ? Oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp chẳng xong, chẳng kết thúc, đôi bên đều đau khổ, phàm phu làm như vậy. Bồ Tát đă giác ngộ, Ngài thọ báo liền biết v́ sao ta gặp phải những chướng nạn ấy. Ngài hiểu, do hiểu nên trong tâm chẳng oán hận, trong ḷng vui vẻ, hoan hỷ tiếp nhận, thanh toán xong rồi, kết thúc rồi, chẳng c̣n oán hận nữa, chẳng c̣n báo đền nữa, thật sự giải quyết vấn đề. Chúng ta hiểu rơ ràng chân tướng sự thật này, quư vị nhất định phải giác ngộ, chớ nên tổn thương, làm hại một chúng sanh nào. Muỗi đến chích ta, có nên giết nó hay không? Chớ nên! Quư vị phải hiểu: Nó chích quư vị một phát, cũng chẳng qua là nó muốn ăn uống, t́m được quư vị, tức là quư vị và nó hữu duyên. Bồ Tát từ bi cúng dường nó, để cho nó ăn no rồi nó sẽ bỏ đi. Phàm phu ngu si chẳng biết, thấy muỗi liền đập bốp một cái, chết tươi, đánh chết tức là nợ nó một mạng! Nay ta giết nó, đời sau, khi ta phải biến thành muỗi, nó biến thành người, nó cũng giết chết ta; lục đạo chúng sanh đều làm chuyện hồ đồ này.

      Do vậy, Phật, Bồ Tát khác hẳn, Phật, Bồ Tát có thể thỏa măn dục vọng của hết thảy chúng sanh, quyết định sẽ không thương tổn, làm hại họ. Những loài tiểu động vật có biết hay không? Biết! Từ từ cảm hóa, giác ngộ chúng. V́ sao? Tự tánh của chúng nó và tự tánh của chúng ta là một, một Thể mà! Chúng nó mê nặng hơn ta, ta mê nhẹ hơn chúng một chút. Do chẳng gặp gỡ Phật pháp, chẳng thể giảng rơ ràng đạo lư này cho quư vị, quư vị không hiểu rơ chân tướng, chắc chắn làm chuyện sái quấy. Há có kẻ nào bị oan uổng mà chẳng có mảy may oán hận ǵ? Chỉ có người hiểu rơ, chỉ có người thật sự giác ngộ liền biết quyết định đừng sát sanh, quyết định chẳng trộm cắp. Chẳng trộm cắp là không cho bèn chẳng lấy. Vật có chủ, chủ nhân chẳng chấp nhận, chớ nên dời động nó, hễ dời động đều thuộc về cái tâm trộm cắp. Tuy ta chẳng có hành vi trộm cắp, nhưng ư niệm bất hảo, chủ nhân bày ra như thế, cớ ǵ ta phải dời động nó? Không tà dâm: Điều này thuộc về tham, sân, si. Tham, sân, si là tác nhân độc hại gây bệnh nghiêm trọng. Chúng ta bên trong có tham, sân, si, nên mới bị lây nhiễm bệnh ôn dịch bên ngoài. Bên trong, tham, sân, si đă đoạn, dẫu bên ngoài có ôn dịch, chẳng thể cảm nhiễm, y học hiện thời gọi điều này là “khả năng miễn dịch”. Khả năng miễn dịch là ǵ? Buông tham, sân, si xuống, khả năng miễn dịch bèn viên măn, bệnh truyền nhiễm ǵ quư vị cũng chẳng nhiễm phải. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta “siêng tu Giới, Định, Huệ, diệt mất tham, sân, si” là có đạo lư to lớn trong ấy!

      Đặc biệt là trong xă hội hiện tiền, tai biến rất nhiều, chúng ta có thể nương theo giáo huấn của Phật, giáo huấn của Bồ Tát, giáo huấn của thánh nhân, đơn giản, ngắn gọn, chẳng phiền phức tí nào. Đó là ǵ? Trí huệ của Phật, Bồ Tát, trí huệ chân thật đơn giản, dễ hiểu. Vâng giữ hiếu, đễ, trung, tín, buông tham, sân, si, mạn xuống, bất luận tai chướng như thế nào quư vị đều sẽ b́nh an vượt qua. Chớ nên hoài nghi những chuyện này, nếu hoài nghi sẽ chẳng có hiệu quả. Thật đấy! V́ sao người khác hữu hiệu, mà ta vô hiệu? Do ta có nghi hoặc nên chẳng linh, mất hiệu lực rồi. Quyết định chẳng nghi hoặc, chắc chắn Phật, Bồ Tát, các vị thánh hiền nhân là những bậc từng trải, công phu tu hành của người ta đă đạt đến tột bậc, chúng ta há nên chẳng tin? Tin tưởng, nghe lời, y giáo phụng hành, quyết định đạt được lợi ích, sẽ trị liệu nỗi khổ Tam Hữu cho chúng ta. Chứng bệnh rất ư là nhiều, bệnh có tám vạn bốn ngàn thứ, [tức là] tám vạn bốn ngàn phiền năo, nên đức Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn giống như thuốc, bệnh (khuyết điểm, phiền năo) của chúng sanh giống như những thứ bệnh khổ. Pháp môn của đức Phật là thuốc, nên nói là “chư pháp dược”. “Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ” (dùng các pháp dược, cứu chữa tam khổ), ĺa khổ được vui, Bồ Tát giúp quư vị viên măn.

      Kế tiếp là “thăng Quán Đảnh giai” (lên địa vị Quán Đảnh), mấy câu kinh văn kể từ câu này trở đi [nói về] sự thọ kư thành Phật. Quư vị đang ở trên đường tu hành, chư Phật hộ niệm quư vị, câu này là thọ kư. “Kiến Đường dịch” (thấy trong bản Đường dịch), câu này trích từ kinh Đại Bảo Tích. Trong kinh văn của hội Vô Lượng Thọ [trong kinh Đại Bảo Tích] có câu này (tức câu “thăng Quán Đảnh giai”). “Giai giả, vị dă. Quán Đảnh giả, Ấn Độ cổ đại quốc vương tức vị thời, thủ tứ hải thủy, quán ư vương đảnh” (“Giai” () là địa vị. “Quán Đảnh”: Quốc vương Ấn Độ vào thời cổ, khi lên ngôi, dùng nước bốn biển rưới lên đỉnh đầu nhà vua). Đây là nói về ư nghĩa biểu thị pháp trên mặt h́nh thức. Thái Tử đăng cơ tiếp nhận ngôi vị quốc vương, bèn cử hành nghi thức này, tức là nghi thức Quán Đảnh. Dùng nước bốn biển: Chúng ta biết Ấn Độ là một bán đảo, ba mặt là đại dương, lấy nước ấy rưới lên đỉnh đầu quốc vương. “Mật Giáo đồng chi” (Mật Giáo cũng giống như vậy), Mật Tông trong Phật giáo có lễ Quán Đảnh, “hữu Quán Đảnh pháp” (có pháp Quán Đảnh). Tiếp đó là giải thích về Quán Đảnh, Quán Đảnh gồm hai loại, “Quán Đảnh hữu đa chủng, giản ngôn chi, tắc vi nhị chủng” (Quán Đảnh có nhiều loại, nhưng nói đơn giản th́ có hai loại), nói đơn giản th́ nó gồm hai loại lớn. Loại thứ nhất là “Kết Duyên Quán Đảnh”, loại này rất phổ biến. Chúng ta gặp một vị Thượng Sư, Thượng Sư làm lễ Quán Đảnh cho chúng ta để kết duyên, chẳng thật, loại này gọi là “Kết Duyên Quán Đảnh”. “Hành nhân khất pháp, vị kết Phật duyên, dẫn nhập Quán Đảnh đàn, thọ dĩ Bổn Tôn chi ấn dữ chân ngôn. Thử hậu, hành nhân tức khả y giáo tùy phận tu tập, thị vi kết duyên Quán Đảnh” (Hành nhân xin thọ pháp, nhằm kết duyên với Phật, [Thượng Sư] bèn dẫn [hành nhân] vào đàn Quán Đảnh, trao truyền ấn khế và chân ngôn của Bổn Tôn[3]. Từ đấy trở đi, hành nhân có thể vâng theo lời dạy, tùy sức tu tập, đó là Kết Duyên Quán Đảnh). Trong Mật Tông Trung Quốc, nếu quy y Thượng Sư, sau khi hành lễ quy y, Thượng Sư quán đảnh cho quư vị. Đại khái là đối với một chén nước dâng cúng trước Phật, dùng đầu ngón tay thấm chút nước rảy lên đỉnh đầu, nghi thức là như vậy. Trọng yếu nhất là Thượng Sư truyền cho quư vị một bài chú ngữ, bảo quư vị hăy thường niệm. Thông thường chú ngữ là Lục Tự Đại Minh Chú, tức “Án, ma-ni bát-mê hồng” (Aum, mani padme hum), thường truyền bài chú này. Lúc tôi vừa mới học Phật, quy y Chương Gia đại sư, Ngài cũng cử hành nghi thức này cho tôi. Chúng tôi quy y đông lắm, dường như tới hơn ba mươi người; nhưng Ngài sử dụng nghi thức Quán Đảnh chẳng trực tiếp rảy lên thân từng người, mà dùng tay thấm nước, búng lên không trung, nước rơi xuống trúng đỉnh đầu từng người chúng tôi. Truyền dạy Lục Tự Chân Ngôn, tức Lục Tự Đại Minh Chú, dạy chúng tôi hăy thường niệm câu chú ngữ ấy, giống như Tịnh Độ Tông chúng ta niệm A Di Đà Phật.

      Chúng tôi tuổi trẻ, đúng là sơ học cũng chẳng hiểu chuyện, nhưng thầy rất từ bi, chẳng trách móc chúng tôi. Tôi thỉnh giáo lăo nhân gia, tôi thưa: “Án, ma-ni bát-mê hồng nghĩa là ǵ?” Thông thường, trong Mật Tông chẳng giải thích [chú ngữ], chỉ dạy quư vị niệm, tôi cứ nhất định hỏi rơ ư nghĩa. Thầy dạy: Chữ Án (Aum) trong câu chú là nói tới thân thể. Ma-ni là hoa sen, trong kinh giáo chúng ta thường thấy dùng chữ Ma-ni, Ma-ni là danh xưng của hoa sen trong tiếng Phạn. Bát-mê là bảo tŕ (ǵn giữ), Hồng là ư, tức tâm ư. Theo cách hành văn của họ, sẽ là “thân, hoa sen, bảo tŕ”, tôi liền hiểu rơ. Người Hoa sẽ nói như thế nào? Khẳng định là giữ ǵn thân tâm giống như hoa sen. Hoa sen mọc lên từ bùn lầy nhưng chẳng nhuốm bẩn. Câu chú có ư nghĩa dạy chúng ta phải giữ ǵn thân tâm trong sạch giống như hoa sen. Tôi nghe xong, ư nghĩa ấy hay quá, giống như cách ngôn, thời thời khắc khắc nhắc nhở thân tâm của chính ḿnh phải thanh tịnh, mang ư nghĩa này. V́ thế, thầy giảng rơ cho chúng tôi, khiến cho chúng tôi hiểu ư nghĩa, điều này rất quan trọng. V́ sao? Mật Tông nhấn mạnh “miệng niệm chú, tâm quán tưởng, tay kết ấn”, gọi là “tam mật tương ứng”, thân - khẩu - ư. Do quư vị chẳng biết ư nghĩa này, quư vị quán tưởng bằng cách nào? Quư vị chẳng có cách nào quán tưởng. V́ vậy, tôi theo Chương Gia đại sư ba năm, Ngài chẳng truyền dạy Mật Pháp cho tôi. Ngài bảo: “Mật pháp nhất định phải có cơ sở Hiển Giáo cao cấp. Nếu chẳng có cơ sở Hiển Giáo cao cấp, sẽ chẳng thể học Mật”. V́ thế, tôi theo Ngài ba năm, toàn bộ là nhằm đặt vững cơ sở nơi Hiển Giáo. Chúng tôi liễu giải: Trong Phật pháp, Mật thuộc loại Phật pháp cao cấp thật sự. Quư vị chẳng có nền tảng cơ sở, chắc chắn sẽ chẳng hành được! Nhất định phải rèn luyện thân tâm sao cho chẳng nhiễm mảy trần đối với cảnh giới bên ngoài th́ mới có tư cách học Mật, chẳng dễ dàng! Hiện thời, chúng ta thấy học Mật quá nửa toàn là Kết Duyên Quán Đảnh, tức là [người nhận Quán Đảnh] có tu hay không, thầy chẳng chịu trách nhiệm, đó là chuyện của bản thân quư vị! V́ thế, sau khi được nhận nghi thức Quán Đảnh, quá nửa người thọ đều chẳng y giáo phụng hành, nghĩa là chỉ có h́nh thức, chẳng có thực chất, chẳng thật sự đạt được hiệu quả.

      Loại thứ hai, “Thọ Chức Quán Đảnh, ư như pháp tích hạnh chi sĩ” (Thọ Chức Quán Đảnh là đối với bậc đúng pháp tu hành, tích tập), Tích () là tích lũy, Hành () là tu hành, thật sự tu hành, tu hành có thành tựu, “truyền thọ bí pháp, nhi tác quán đảnh. Đắc quán đảnh dĩ, kham thọ sư vị, ư Mật pháp trung tác A Xà Lê, thị vi Thọ Chức (hoặc Truyền Giáo) Quán Đảnh” (do truyền trao pháp bí mật mà làm Quán Đảnh. Đă được Quán Đảnh bèn có thể ở vào địa vị thầy dạy, làm bậc A Xà Lê trong Mật pháp. Đó là Quán Đảnh truyền chức (hoặc truyền giáo)). Loại Quán Đảnh này giống như nghi thức trong điển lễ trao bằng tốt nghiệp. Quư vị học hành trong trường, đă học xong các lớp, sẽ đạt được học vị. Thí dụ như học vị Tiến Sĩ, hiệu trưởng trao bằng học vị Tiến Sĩ cho quư vị; điển lễ ấy được gọi là “Thọ Chức Quán Đảnh”. Phép Quán Đảnh này là thật, chẳng giả, khẳng định quư vị tu học thành tựu, do truyền trao Mật pháp mà cử hành nghi thức này, cũng như báo cho đại chúng biết quư vị có thể làm A Xà Lê. A Xà Lê (Ācārya) là thầy, trong trường học gọi là Giáo Thọ (giáo sư)[4]. Quư vị có tư cách đảm nhiệm vai tṛ giáo sư, có năng lực dạy bảo học tṛ; điều ấy gọi là “Thọ Chức Quán Đảnh”, tức là quư vị đạt được học vị. Nếu chẳng đạt được học vị ấy, quư vị chẳng có tư cách làm giáo sư. V́ vậy, những vị A Xà Lê truyền pháp trong Mật Tông đều phải trải qua Thọ Chức Quán Đảnh th́ mới được khẳng định.

      Hiện tại, trong thời đại này, bậc cao tăng đại đức đều chẳng c̣n. Có thể nói là hiện nay là thời đại cả thế giới hỗn loạn nhất từ trước tới nay. Chúng ta sanh nhằm đời loạn, trong đời loạn, lắm kẻ tạo ra nỗi oan nghiệt, ít người hành thiện. Chư Phật, Bồ Tát có trụ thế hay không? Nói theo lư, chúng sanh càng khổ, Bồ Tát càng phải đến. Bồ Tát trụ thế nhằm cứu độ chúng sanh khổ nạn. Nói chung, các Ngài chẳng thể thấy chết mà không cứu, nhất định phải đến. Tuy các Ngài có đến, nhưng chúng ta đều chẳng nhận biết, các Ngài chẳng dùng thân phận Phật để đến, cũng chẳng dùng thân phận Bồ Tát để đến, thậm chí cũng chẳng dùng thân phận A Xà Lê để đến, mà thị hiện giống hệt như kẻ b́nh phàm chúng ta, nên quư vị cũng chẳng nh́n ra. V́ sao? Thật sự thị hiện làm Phật, Bồ Tát, A Xà Lê, quư vị chẳng tin tưởng. Thị hiện làm nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp trong dân gian; quư vị chú tâm quan sát sự biểu hiện của các Ngài, [sẽ thấy] tâm tưởng, ngôn luận, hành vi của các vị ấy chắc chắn chẳng phải là tạo ác. Chú tâm quan sát, sẽ thấy các Ngài xa ĺa Thập Ác, biểu hiện của các Ngài chắc chắn tương ứng với Tánh Đức, tương ứng với Thập Thiện. Người Hoa nói là tương ứng với luân lư, đạo đức th́ chúng ta gọi người ấy là “hảo nhân”. Trong thời đại này c̣n có hảo nhân, rất nhiều hảo nhân là do Phật, Bồ Tát ứng hóa, là bậc đại thánh đại hiền tái lai, đến ḥa quang đồng trần với chúng sanh. Các Ngài ở chỗ nào, chỗ ấy tai nạn khá nhẹ, thời gian xảy ra tai nạn khá ngắn, đại chúng chúng ta được hưởng lây, chuyện là như thế đó. Phật, Bồ Tát chẳng cần quư vị cung kính các Ngài, cũng chẳng cần quư vị tán thán các Ngài, điều ǵ các Ngài cũng không cần, sống cuộc đời rất b́nh phàm, quư vị không có cách nào cảm nhận. Nếu chẳng có các vị ấy, tai nạn trong thế giới này sẽ khôn xiết kể! Các Ngài làm cho tai nạn nhẹ bớt, chậm lại, chẳng phải là làm chuyện ǵ khác.

      Tiếp đó, [sách Chú Giải] viết: “Thượng thị thô phân. Nhược tường luận chi, tắc tại thượng thuật nhị giả chi gian, thượng hữu thường hành chi tứ chủng Quán Đảnh” (Trên đây là phân chia thô thiển. Nếu luận định cặn kẽ, th́ trong hai loại vừa nêu trên đây, c̣n có bốn loại Quán Đảnh thường được cử hành). Đây là kiến thức thông thường được nói kèm thêm, có bốn loại Quán Đảnh. Loại thứ nhất là “B́nh Quán, đắc tu tập sanh khởi thứ đệ chi tự tại” (B́nh Quán, được phép tự tại tu tập sanh khởi theo thứ tự). H́nh thức này là [lễ Quán Đảnh sử dụng] tịnh thủy b́nh, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát một tay (tay trái) cầm tịnh b́nh, tay phải cầm cành dương; dùng tịnh b́nh để quán đảnh[5]. Thông thường đều có thứ tự tu tập sanh khởi, [nghĩa là] người học, tức là người tu hành, thuật ngữ “hành nhân” trong Phật pháp nghĩa là “người tu hành”, [tu tập] có giai đoạn. Như kinh Hoa Nghiêm nói Thập Trụ, đạt đến địa vị cao nhất là địa vị thứ mười có danh xưng là Quán Đảnh Trụ, sẽ cử hành nghi lễ này. Khi từ địa vị Thập Tín đạt đến địa vị Quán Đảnh, tiến lên cao hơn là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, đạt đến địa vị cao nhất trong mỗi tầng cấp. Đó là “tu tập sanh khởi theo thứ tự”. Giống như chúng ta học hành trong nhà trường, tốt nghiệp Tiểu Học, tốt nghiệp Trung Học. Tốt nghiệp Đại Học bèn có học vị. Tốt nghiệp Tiểu Học và Trung Học đều chẳng có học vị. Đấy là B́nh Quán.

      Loại thứ hai, “Mật Quán, đắc tu khí mạch, minh điểm chi tự tại” (Mật Quán, được tự tại tu luyện khí mạch, minh điểm[6]). Công phu sâu hơn loại trước. Đây là dùng mật chú, mật chú có rất nhiều tánh chất, trọn chẳng tương đồng. Có các thứ mật chú giúp quư vị đoạn phiền năo, có những mật chú giúp quư vị giải trừ bệnh tật, khôi phục sức khỏe nơi thân thể. Ở trong núi thẳm, hay trên cao nguyên, nhất định phải tu những pháp môn ấy. V́ sao? Sống tại các nơi ấy, việc chữa trị hết sức bất tiện, phải dùng năng lượng của chính ḿnh để giúp cho thân tâm của chính ḿnh khỏe mạnh. Các mật chú ấy dùng một loại âm thanh khiến cho các huyệt đạo trong thân thể chúng ta thông suốt, không bị trở ngại. Bệnh là ǵ? Do khí huyết không thông nên sanh bệnh. Tại Trung Quốc, quá nửa là dùng phương pháp xoa bóp, khiến cho nó được lưu thông, hoặc dùng phương pháp châm cứu, chỗ nào bị bế tắc, trở ngại, bèn đả thông chỗ đó, bệnh tật sẽ lành, đạo lư là như vậy đó. Phương pháp cao minh nhất là không cần dùng đến châm cứu hay xoa bóp, mà dùng âm thanh. Chỗ nào sanh bệnh, bèn dùng chú ngữ ấy, chúng ta gọi nó là “chú ngữ”, trên thực tế là âm thanh. Âm thanh ấy phát ra, chấn động chỗ bị ứ tắc, do bị chấn động, nó được khai thông, đạo lư là như vậy đó! V́ thế, trong Đại Tạng Kinh, dùng mật chú để chữa bệnh có rất nhiều chú ngữ, nhưng hiện thời chúng ta niệm các chú ngữ ấy có thể chữa bệnh hay không? Chẳng thể! Do nguyên nhân ǵ? Chúng ta niệm âm thanh không chuẩn. Âm thanh ấy phải rất chuẩn xác, âm thanh lại c̣n phải dài, ngắn, mạnh, yếu nhằm chấn động một bộ vị tại một nơi nào đó. Rất hợp lư, chẳng phải là vô lư, đáng tiếc là đă thất truyền, hiện thời chẳng có mấy người biết! Theo những ghi chép trong lịch sử Trung Quốc, vào thời nhà Đường, các chú ngữ chữa bệnh được nói trong kinh điển đều hết sức hữu hiệu. V́ thuở ấy, người xuất gia lẫn tại gia học tập đều rất đúng chân truyền, nên ứng dụng hết sức thuận tiện. Nó có thể khiến cho năng lượng của chính ḿnh tập trung, chẳng tản mát; do vậy, thân thể khỏe mạnh, sống lâu, có thể chống lại phong hàn bên ngoài. Mùa Đông mặc quần áo rất mỏng mà chẳng lạnh; mùa Hè mặc quần áo rất dầy, nhưng chẳng nóng. Người ấy có khả năng như thế. Học loại này cũng phải có công phu kha khá.

      Loại thứ ba, “Huệ Quán, đắc cụ Bồ Đề tâm quyết chi tu tŕ tự tại” (Huệ Quán: Đạt được bí quyết tự tại tu tŕ Bồ Đề tâm). Đây là Trí Huệ Quán Đảnh, cũng là Thượng Sư gia tŕ học tṛ. Các vị tổ sư đại đức Thiền Tông Trung Quốc đă sử dụng phương pháp này để giúp học tṛ đại triệt đại ngộ, trong Mật Tông gọi phương pháp này là Huệ Quán. Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Khi nào vị ấy thấy đứa học tṛ này hiện thời công phu đạt tới mức, đă chín muồi, nhưng c̣n kém sút đôi chút. Chúng ta thường nghe nói “bổng hát” (棒喝: đánh bằng gậy, quát tháo) trong Thiền Đường, đó là một thứ phương thức [tiếp dẫn]. Khi người ấy sắp khai ngộ, nhưng vẫn chưa khai ngộ, c̣n kém một chút, vị thầy cao minh bèn giáng cho một gậy, hoặc hét một tiếng, khiến người ấy cả kinh, tỉnh ngộ, giải quyết vấn đề, chẳng cần đến ngôn thuyết, khiến cho người ấy hoát nhiên đại ngộ. Những trường hợp giống như vậy được ghi chép rất nhiều trong các bộ ngữ lục của Tông Môn, có trường hợp là đại ngộ, có trường hợp là đại triệt đại ngộ.

      Loại thứ tư là “Đại Thủ Ấn Quán, đắc tu Đại Thủ Ấn đạo chi tự tại. Mật Giáo trọng truyền thừa, vị kinh Quán Đảnh, bất đắc thiện tự tu tập, kinh quỹ diệc bất đắc thiện duyệt” (Đại Thủ Ấn Quán: Được tự tại tu tập theo đường lối Đại Thủ Ấn[7]. Mật Giáo coi trọng sự truyền thừa. Người chưa được Quán Đảnh, chẳng được tự tiện tu tập, mà cũng chẳng được tự tiện xem đọc các kinh điển, nghi quỹ). Những điều này [là quy định] trong Mật Tông, nên nó được gọi là Mật. Mật ở đây chẳng phải là thần bí, chẳng phải là bí mật, mà là thâm mật (sâu kín), có đạo lư rất sâu. Nhất định phải có thầy truyền thừa, dẫu quư vị có các kinh điển ấy cũng chẳng thể học tập. Quư vị cũng chẳng thể học thành, ắt phải có người chỉ điểm. Chẳng giống như Hiển Giáo, Hiển Giáo có thể “vô sư tự thông” (không có thầy mà tự thông hiểu), chứ Mật Giáo th́ không được! Mật Giáo nhất định phải có Thượng Sư. Hơn nữa, tu học chưa thành tựu, chẳng thể rời khỏi Thượng Sư. Rời khỏi Thượng Sư sẽ không thể thành tựu, hết sức coi trọng sư thừa. Tôi theo Chương Gia đại sư ba năm, lăo nhân gia bèn viên tịch; bởi vậy, tôi được đặt vững cơ sở Phật pháp trong ba năm ấy, hết sức khó có! Nếu chẳng có ba năm cơ sở ấy, tôi theo thầy Lư học Giáo mười năm vẫn học chẳng thể thành công! Do ba năm cơ sở ấy, nên học Giáo ở chỗ thầy Lư mười năm mới có căn cơ vững vàng, mới có một chút thành tựu như vậy, rất khó có! Lại nghĩ đến đâu để t́m được một bậc thầy giống như vậy nữa? T́m chẳng được! T́m không được th́ làm như thế nào? Tôi thường khuyến khích các đồng học, hăy làm tư thục đệ tử của cổ thánh tiên hiền, chư Phật, Bồ Tát, hăy học theo Mạnh Tử, học theo Ngẫu Ích đại sư th́ trong một đời này, chúng ta vẫn c̣n có thể hy vọng. Chớ nên không đặt vững cơ sở đức hạnh. Chẳng có đức hạnh sẽ không thể có học vấn, chắc chắn là như vậy!

      Nói cách khác, làm người chưa xong th́ làm sao quư vị có thể làm Phật, làm Bồ Tát cho được? Há lẽ nào có chuyện như thế được? Nếu muốn học thánh, học hiền, học Phật, học Bồ Tát, phải làm người tốt đẹp trước đă. Giữ tấm ḷng tốt, nói lời tốt, làm chuyện tốt, làm người tốt, tôi thường nói là “bốn thứ tốt”. “Tốt” có tiêu chuẩn, nhất định phải ghi nhớ tiêu chuẩn, rất đơn giản, chẳng phiền phức: Đệ Tử Quy là tiêu chuẩn của Nho gia, Cảm Ứng Thiên là tiêu chuẩn của Đạo gia, Thập Thiện Nghiệp là tiêu chuẩn của Phật gia, ba thứ ấy chẳng thể không học! Chẳng có ba thứ ấy, niệm Phật văng sanh đều chẳng đáng tin cậy, chẳng nắm chắc. Có cơ sở ấy, học cơ sở ấy đến nơi đến chốn, thực hiện một trăm phần trăm, người ta hỏi quư vị niệm Phật văng sanh có nắm chắc hay không? Quư vị thật sự nắm chắc! Đúng như kinh điển vừa mở ra bèn là “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, quư vị sẽ có phần. Thật sự thực hiện, quư vị sẽ pháp hỷ sung măn, thật sự là như Khổng Tử đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi tu tập, cũng chẳng vui sao), thật sự đạt được pháp hỷ, thật sự hưởng vui sướng, quư vị làm được! Quư vị làm không được bèn có phiền năo, ưu lự, đau khổ; hễ quư vị làm được bèn chẳng có [những thứ ấy]. Do người b́nh phàm học Phật, học Đạo, học Nho đều coi thường, bỏ sót các căn cội ấy, [viện cớ] h́nh như chưa nghe nói người xưa đă học những thứ ấy. Thật ra, chúng ta đă hiểu lầm mất rồi. Người Trung Quốc trong thế kỷ trước, đă học từ ngay khi mẹ mang thai, lẽ nào chẳng học? Khi họ học, quư vị chẳng thấy. Giáo dục ba căn cội được giảng dạy vào lúc nào? Do mẹ dạy. Từ lúc sanh ra cho đến ba tuổi, trong một ngàn ngày ấy là vun quén căn bản giáo dục. Cổ ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Tam tuế khán bát thập”. Hiện thời, chẳng nghe ai nhắc đến câu này, chứ lúc chúng tôi c̣n bé thường nghe nói. [Câu ấy] nói rơ căn cội được vun trồng trong một ngàn ngày của ba năm ấy, đến lúc tám mươi tuổi vẫn chẳng biến đổi. Căn cội ấy vun bồi rất sâu, căn cội ấy được vun bồi rất kiên cố. V́ thế, người ấy nếu gặp duyên, hễ học Nho bèn thành thánh nhân, hoặc hiền nhân. Học Đạo bèn thành thần tiên. Học Phật sẽ thành Phật, hay thành Bồ Tát, thật đấy, chẳng giả đâu!

      Hiện tại th́ sao? Hiện tại, trong thế kỷ này rất bất hạnh, thế kỷ này là đời loạn. Sau khi nhà Măn Thanh vong quốc, sang năm là đúng một trăm năm, suốt một thế kỷ xă hội động loạn là do mọi người coi thường, bỏ sót căn cội này chẳng vun bồi. Nửa thế kỷ gần đây, nói trên danh nghĩa là tiến bộ, chúng ta đi theo đường hướng công nghiệp hóa, công nghiệp hóa là như thế nào? Cạnh tranh. Chồng cạnh tranh trong xă hội, tận hết sức bươn chải vẫn chưa đủ sức, vợ bèn tiếp sức. Hai vợ chồng đều đi làm, con thơ sanh ra chẳng ai chăm sóc, cha mẹ chẳng dạy dỗ. Trong nhà bèn thuê người làm, để người làm dạy dỗ con thơ. Con của quư vị biến thành người làm, chẳng phải là như vậy ư? Quư vị đă làm hư thế hệ kế tục. Người làm dạy như thế nào? Người làm cho trẻ xem TV, trẻ nhỏ bèn ngoan ngoăn, chẳng làm ồn nữa. Do vậy, hiện thời ai dạy dỗ trẻ nhỏ? TV dạy chúng, học Tiểu Học bèn được Internet dạy dỗ. Quư vị hăy nghĩ xem, TV và Internet dạy chúng nó những ǵ? Dạy chúng nó bạo lực và t́nh dục, dạy chúng nó giết, trộm, dâm, dối, hủy hoại toàn bộ. Quả báo là ǵ? Quả báo là xă hội hiện thời động loạn, tai nạn trên địa cầu chẳng phải là không có nguyên nhân. Quả báo hiện tiền, chẳng biết do đâu mà có, v́ sao trong quá khứ mấy ngàn năm qua chẳng có những tai nạn như vậy, v́ sao hiện tại có lắm tai nạn như thế? Mọi việc ắt có nhân quả, hăy t́m nhân từ nơi quả, từ cái nhân sẽ thấy được quả báo, thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo. Tổ tiên thật sự thương yêu con cháu đời sau, ân đức ấy chẳng có cách nào báo đáp.

      Khoa học hiện thời chê tổ tiên ngu độn hơn chúng ta, nay chúng ta ra khỏi cửa bèn ngồi xe hơi, ngồi máy bay, tổ tiên cưỡi ngựa hoặc đi bộ, thua xa chúng ta. [Do vậy], xem thường tổ tiên, đó là ǵ? Là đại bất hiếu! Thời cổ, đại bất hiếu là quả báo ǵ? Trời tru đất diệt. Quư vị thấy tai nạn hiện thời có phải là trời tru, đất diệt hay không, bất hiếu mà! Bất hiếu cha mẹ, bất kính sư trưởng, tai nạn bèn xảy đến. Các đế vương Trung Quốc từ xưa tới nay đề xướng ǵ? Họ đề xướng hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy. Mỗi hoàng đế đều mong mỏi sau khi chết, thụy hiệu[8] có chữ Hiếu, họ thông hiểu. Trong xă hội hiện thời, chúng ta chẳng cần đến hiếu kính, tức là quan điểm về giá trị trong xă hội bị đảo ngược, nên nẩy sanh biến hóa một trăm tám mươi độ! Trong quá khứ, quan điểm giá trị là “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”; hiện thời chẳng c̣n nữa, trào lưu hiện thời là “bất hiếu, bất kính, bất nhân, bất nghĩa”, người sống trong thế gian rất đáng thương. Chúng ta rất may mắn gặp gỡ giáo dục của thánh hiền, gặp gỡ Phật pháp. Hăy suy nghĩ, nếu chúng ta chẳng được gặp Phật pháp, sẽ sống cuộc đời này như thế nào? Rất khổ sở. Tuy nói là làm người, nhưng chúng ta nghĩ xem, có khác ǵ ngạ quỷ và địa ngục?

      Chúng ta lại xem tiếp đoạn dưới, đoạn này vẫn tiếp tục cho chúng ta biết đôi chút kiến thức về Quán Đảnh. V́ nội dung kinh Vô Lượng Thọ vô cùng phong phú, có Hiển Giáo, có Mật Giáo, có Tông Môn, có Giáo Hạ. Kinh văn tuy không dài, nhưng hết thảy các giáo nghĩa do đức Thế Tôn đă nói trong bốn mươi chín năm đều hiện diện viên măn trong bộ kinh này. Câu kế tiếp là: “Hựu Quán Đảnh phục hữu Sơ Vị dữ Hậu Vị chi biệt. Sơ Vị giả, như Đại Nhật Kinh Sớ thập ngũ viết: (Hạ văn lược hữu san tiết), thí như thế gian Sát-lợi chi chủng, dục thiệu tự kỳ vị, linh vương chủng bất đoạn cố. Vị kỳ đích tử, nhi tác Quán Đảnh. Thủ tứ đại hải thủy, dĩ tứ bảo b́nh thịnh chi. Thủy linh lưu chú Thái Tử chi đảnh. Quán thử thủy đă, đại thanh tam xướng” (Lại nữa, Quán Đảnh có Sơ Vị và Hậu Vị khác nhau. Sơ Vị là như Đại Nhật Kinh Sớ quyển thứ mười lăm chép: (Đoạn văn dưới đây đă được trích lược) “Ví như ḍng Sát Đế Lợi (Ksatriya) trong thế gian, do muốn cho ngôi vua được tiếp nối khiến cho ḍng vua chẳng bị gián đoạn, bèn làm lễ Quán Đảnh cho đích tử. Lấy nước từ bốn biển cả, dùng bốn cái b́nh báu để đựng, rưới nước ấy lên đỉnh đầu Thái Tử, lớn tiếng xướng ba lượt”). Kế đó, là lời nhà vua nói: “Nhữ đẳng đương tri, Thái Tử dĩ thọ vị cánh, tự kim dĩ hậu, sở hữu giáo sắc giai đương phụng hành” (các ngươi nên biết, Thái Tử đă tiếp nhận chức vị, từ nay trở đi, tất cả mệnh lệnh của Thái Tử đều phải phụng hành). Đó là tại Ấn Độ vào thời cổ, khi Thái Tử tiếp nhận vương vị, trong phần trước đă nói qua, đến chỗ này, bèn tŕnh bày tỉ mỉ. [Quán Đảnh theo lối] B́nh Quán, sau khi Quán Đảnh, mấy câu này là truyền lệnh của Thái Tử. “Nhữ đẳng đương tri” (các ngươi nên biết): Nhân dân cả nước phải biết, Thái Tử đă tiếp nhận ngôi vị, từ nay trở đi, tất cả các mệnh lệnh của ông ta ai nấy đều phải phụng hành.

      Trong Phật pháp, dùng chuyện này làm tỷ dụ: “Kim Như Lai pháp Vương, diệc phục như thị, vị linh Phật chủng bất đoạn cố, dĩ cam lộ pháp thủy nhi quán Phật tử chi đảnh. Tùng thử dĩ hậu, nhất thiết thánh chúng hàm sở kính ngưỡng, diệc tri thử nhân tất cánh bất thoái ư Vô Thượng Bồ Đề, định thiệu Như Lai Pháp Vương chi vị. Dĩ thượng tựu hành nhân Sơ Vị nhi thích” (Nay đấng Như Lai Pháp Vương cũng giống như thế, v́ muốn cho ḍng dơi Phật chẳng đoạn, nên dùng nước cam lộ rưới lên đỉnh đầu Phật tử. Từ nay trở đi, hết thảy thánh chúng đều cùng kính ngưỡng, và cũng biết người ấy rốt ráo chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, chắc chắn nối ngôi vị Như Lai Pháp Vương. Trên đây là lời giải thích về Sơ Vị [Quán Đảnh] của hành nhân). Đây là Thọ Kư Quán Đảnh, người ấy đă thành Phật hay chưa? Chưa thành Phật, nhưng ta biết người ấy tu hành thật sự chẳng thoái chuyển, tương lai nhất định thành Phật. Đó là đức Phật thọ kư cho người học, nên gọi là Sơ Vị. Đức Phật quán đảnh có cần dùng đến nước hay không? Vẫn dùng, nhằm biểu trưng pháp, quư vị phải biết điều đó. Phật pháp trọng thực chất, chẳng coi trọng h́nh thức, nhưng cần phải có h́nh thức ấy để biểu diễn cho đại chúng xem, hy vọng đại chúng nh́n vào h́nh thức ấy, chớ quên ư nghĩa thật sự của việc Quán Đảnh. Quán () nghĩa là ǵ? Nghĩa là truyền trao. Thầy giảng đạo lư tu hành cho quư vị nghe, quư vị đă hiểu rơ, giác ngộ, đó là Quán Đảnh, quán nhập! Giảng cho quư vị nghe, nhưng quư vị nghe chẳng hiểu rơ, nghe chẳng thông suốt, tức là tuy quán nhưng chẳng lọt vào [tâm của hành nhân] được. Chuyện là như vậy đó. Quư vị thật sự nghe hiểu, sau khi nghe hiểu, y giáo phụng hành, đạt được lợi ích; cho nên là Sơ Quán. Do điều này, chúng ta phải hiểu: H́nh thức chẳng trọng yếu, có h́nh thức hay không đều chẳng sao! Chúng ta cầu Phật quán đảnh cho chúng ta, có cầu được hay không? Có thể! Có quán nhập hay chăng? Tùy thuộc cá nhân! Cách cầu như thế nào? Quư vị niệm kinh Vô Lượng Thọ từ đầu đến cuối một lượt, tức là được mười phương Như Lai quán đảnh cho quư vị một lần. Quư vị niệm một lần, thật sự thấu hiểu, thật sự minh bạch, y giáo phụng hành, tức là đă quán nhập. Mỗi ngày niệm hai lần là được quán đảnh hai lần, mỗi ngày niệm mười lần là được quán đảnh mười lần. Đó là Chân Quán Đảnh, chẳng giả. Tuy chẳng có h́nh thức, nhưng thật sự được truyền thụ. Mười phương ba đời hết thảy Như Lai đều y theo phương pháp trong bộ kinh này để tu hành chứng quả, và cũng nương theo phương pháp ấy để giáo hóa hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh thành tựu giống như Phật. Đó gọi là Đại Quán Đảnh, Chân Quán Đảnh, quư vị nhất định phải hiểu đạo lư này. Từ đầu đến cuối bộ sách này, từng câu từng chữ đều đáng gọi là “cam lộ pháp thủy”, hăy thật sự y giáo phụng hành. Quư vị thấy từ nay trở đi, “nhất thiết thánh chúng hàm sở kính ngưỡng, diệc tri thử nhân tất cánh bất thoái ư Vô Thượng Bồ Đề” (hết thảy thánh chúng đều cùng kính ngưỡng, cũng biết người ấy rốt ráo chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề), tương lai văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định chứng đắc “Như Lai Pháp Vương chi vị” (địa vị Pháp Vương của Như Lai), khẳng định! Đó là ư nghĩa Quán Đảnh trong Phật pháp, dùng chuyện này để biểu thị pháp.

      “Chí ư Hậu Vị” (c̣n đối với Hậu Vị), “Hậu Vị” là Quán Đảnh sau khi thành Phật. “Tắc như Bí Tạng Kư viết: Bồ Tát Sơ Địa năi chí Đẳng Giác, cứu cánh thiên Phật quả thời” (th́ như sách Bí Tạng Kư[9] giảng: “Bồ Tát từ Sơ Địa cho đến Đẳng Giác, khi rốt ráo đạt đến Phật quả”), “thiên” () ở đây là chứng đắc, chứng đắc Phật quả, chứng đắc địa vị Diệu Giác, “chư Phật dĩ Đại Bi thủy quán đảnh” (chư Phật dùng nước Đại Bi rưới đảnh), đây là hết thảy chư Phật bằng gia tŕ bằng ư niệm, nên gọi là “Quán Đảnh”. Đối với bất cứ một ai, đó là lúc nào? Lúc đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, mười phương chư Phật gia tŕ người ấy. Chúng ta là hạng phàm phu tầm thường chẳng thấy, nhưng chính người ấy biết, chư Phật Như Lai biết, Pháp Thân đại sĩ biết. Không chỉ biết mà c̣n đều thấy, tin tức ấy lập tức truyền khắp pháp giới, lẽ nào chẳng biết! Chỉ có lục đạo phàm phu, ngoại phàm trong mười pháp giới mê hoặc, điên đảo, những kẻ ấy không biết. Mấy câu kết thúc rất hay, nhằm nêu ra cho chúng ta biết ư nghĩa chân thật của Quán Đảnh: “Hựu Bí Tạng Kư Sao thất” (lại nữa, Bí Tạng Sao Kư, quyển bảy), trong quyển thứ bảy có một đoạn như thế này, “Quán giả”, Quán là ǵ? “Đại bi hộ niệm nghĩa” (nghĩa là đại bi hộ niệm), đó là Quán. Đảnh là ǵ? “Đảnh giả, Phật quả tối đảnh nghĩa” (Đảnh: Phật quả là tột đỉnh). Trong Phật pháp, chỗ vô thượng tối cao, tuyệt đỉnh trong Phật pháp th́ gọi là Đảnh.

      Thời đại Tùy - Đường là thời đại hoàng kim trong Phật giáo Trung Quốc, tại lănh thổ Trung Quốc, mười đại tông phái đều được thành lập trong thời đại ấy. Tiểu Thừa có hai tông là Câu Xá Tông và Thành Thật Tông. Đại Thừa có tám tông, trong tám tông ấy có Thiền Tông và Mật Tông, Thiền Tông xưng là Tông Môn, bảy tông phái Đại Thừa c̣n lại đều gọi là Giáo Hạ, nên gọi là Tông Môn - Giáo Hạ. Vào thời cổ, tại Trung Quốc, Phật giáo được gọi là Tông Giáo, chẳng liên quan ǵ đến “tôn giáo” nói trong hiện thời. Thời cổ, hễ nói đến Tông Giáo tức là nói đến Tông Môn và Giáo Hạ trong Phật môn, mang ư nghĩa ấy. Chữ Tông chuyên gọi Thiền Tông, chữ Giáo chính là bảy tông phái khác biệt đều gọi là Giáo. V́ sao xưng hô như vậy? Thiền Tông dùng phương pháp giáo học đặc thù, chẳng có văn tự, chẳng phải nương vào kinh điển để giáo học. Những người [là đối tượng của cách giáo học như vậy] được gọi là “thần đồng”. Bậc thượng thượng căn chẳng cần đến văn tự, họ đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Sau khi đă kiến tánh mới học kinh điển, chưa kiến tánh chẳng học kinh điển. Sau khi đă kiến tánh, học kinh điển nhanh chóng, như Long Thọ Bồ Tát, đối với hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, Ngài cần bao nhiêu thời gian để học trọn hết? Học xong toàn bộ trong ba tháng, ba tháng đă tốt nghiệp. Học như thế nào? Mỗi bộ kinh đọc đôi ba câu đă hiểu rơ, chẳng cần đọc kinh ấy nữa, nên học nhanh lắm! Ba tháng là chín mươi ngày, chúng ta có lư do để tin tưởng. Đối với Long Thọ Bồ Tát, chúng ta chưa thấy [kinh sách ghi chép cụ thể để chứng thực điều ấy], nhưng đối với Lục Tổ Huệ Năng đại sư th́ chúng ta thấy được. Trong Đàn Kinh đă ghi chép một trường hợp vô cùng hay. Thiền sư Pháp Đạt cũng là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, cả đời là một bộ kinh Pháp Hoa, đại khái đă niệm mười năm, [v́ Sư tự cho biết đă] niệm hơn ba ngàn lần. Kinh Pháp Hoa rất dài, đại khái mỗi ngày chỉ có thể niệm một lần, bảy quyển kinh văn dài, niệm ba ngàn lần. Tới bái kiến Lục Tổ đại sư, gặp mặt, cúi đầu lễ, nhưng đầu chẳng sát đất, đảnh lễ ba lạy, đầu chẳng sát đất. Đứng lên, Lục Tổ hỏi Sư: “Vừa rồi ông lễ bái, đầu chẳng chạm đất, ông có ǵ đáng để kiêu ngạo đó chăng?” Đó là ngạo mạn, [tuy đảnh lễ nhưng] đầu chẳng sát đất. Sư rất thành thật, [thưa] “tôi đă niệm ba ngàn biến kinh Pháp Hoa”, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Lục Tổ hỏi Sư: “Kinh Pháp Hoa giảng ǵ vậy?” Sư chẳng đáp được, niệm rất thuộc, có thể đọc thuộc ḷng. Sư thưa hỏi Lục Tổ, Lục Tổ bảo: “Ta chưa nghe kinh ấy”. Lục Tổ không biết chữ: “Ông hăy niệm cho ta nghe”. Kinh Pháp Hoa hai mươi tám phẩm, Sư niệm đến phẩm thứ hai, Lục Tổ bảo: “Được rồi, phần sau chẳng cần niệm nữa, ta đă hiểu rơ toàn bộ rồi”. Quư vị thấy hai mươi tám phẩm kinh, [mới nghe] hai phẩm Ngài đă hiểu toàn bộ, phần sau không cần [nghe nữa]. Trong ba tháng, Long Thọ Bồ Tát hiểu rơ toàn bộ Đại Tạng Kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng có ǵ hiếm hoi, lạ lùng! Do vậy, Tông Môn lợi hại, sau khi khai ngộ, đối với Phật pháp, một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông. Thật ra, sáu trăm quyển Đại Bát Nhă được Thích Ca Mâu Ni Phật giảng trong hai mươi hai năm, kinh Kim Cang là một phần trong ấy. Ngũ Tổ chỉ giảng đại ư kinh Kim Cang cho Lục Tổ, mà cũng chẳng cần đến kinh bổn, vào canh ba nửa đêm, chúng tôi ước đoán chẳng giảng lâu hơn hai giờ. Ngài giảng đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Lục Tổ hoát nhiên đại ngộ, chẳng cần giảng nữa. Những điều khác hoàn toàn chẳng giảng, đă thông hiểu toàn bộ rồi. Ngũ Tổ truyền y bát cho Sư, thọ kư cho Sư: “Ông giống như A Xà Lê, ông là Tổ Sư đời thứ sáu của Tông Môn”.

      Do cách giáo học đặc thù của Thiền Tông, chẳng phải là bậc thiên tài sẽ chẳng thể học, quư vị học ǵ cũng chẳng được. Không giống như Giáo Hạ, Giáo Hạ là một trường học thông thường, trong bảy tông phái c̣n lại, Thiên Thai là Pháp Hoa Tông, Hiền Thủ là Hoa Nghiêm Tông, trừ những tông chúng ta quen thuộc ấy ra, c̣n có Tam Luận Tông, Pháp Tướng Tông, Luật Tông, Mật Tông (Mật Tông cũng thuộc về Giáo Hạ), và Tịnh Độ Tông. Những tông phái ấy đều dựa theo kinh điển. Giống như dạy học trong nhà trường, từ cạn đến sâu, học từ từ, có Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, nghiên cứu sinh, nâng cao từng bước một. Chẳng giống như Thiền Tông, Thiền Tông là “một bước lên trời”, hễ khai ngộ tất cả đều hiểu rơ. Tông Môn và Giáo Hạ là hai loại phương thức giáo học khác nhau. Giáo Hạ là cách giáo học thông thường, có thứ lớp. Tông Môn chẳng có thứ lớp, nên rất khó thành tựu. Lục Tổ Huệ Năng đại sư tại Trung Quốc truyền pháp có thể nói là không tiền khoáng hậu, sau Ngài chẳng có ai được như vậy nữa. Trong đời Ngài, dưới sự điều giáo (uốn nắn, giáo hóa) của Ngài, có bốn mươi ba người đại triệt đại ngộ. Trong quá khứ, Tông Môn chẳng có nhiều người [đại triệt đại ngộ] như thế! Một thầy truyền được một hai học tṛ, làm sao có thể truyền tới bốn mươi ba người? Các vị tổ sư Thiền Tông sau đó truyền tối đa cũng không quá ba, bốn người. Truyền được một người là nhiều nhất, [những vị thiền sư] chẳng có truyền nhân càng nhiều, suốt đời t́m chẳng ra người để truyền pháp!

      Tông Môn và Mật Tông đều phải có người truyền, nhất định phải có thầy chân truyền để truyền trao, chẳng có thầy đều chẳng thể thành tựu! Không giống như Giáo Hạ, Giáo Hạ chẳng có thầy, y theo kinh điển vẫn có thể thành tựu, từ từ đạt được. Đặc biệt là Tịnh Độ Tông trong Giáo Hạ, trong kinh Đại Tập đức Phật đă thọ kư cho mọi người chúng ta, lăo nhân gia nói rất hay: “Chánh Pháp thời kỳ, giới luật thành tựu”, [nghĩa là] kể từ sau khi đức Phật diệt độ, suốt một ngàn năm là thời kỳ Chánh Pháp, thật sự có thể tŕ giới bèn đắc Định, có thể chứng quả A La Hán. Thành tựu trong nhà Phật là có thể ngay trong đời này vượt thoát lục đạo luân hồi, chứng quả A La Hán, được coi như thành tựu. Chưa thể vượt thoát lục đạo, vẫn luân hồi trong lục đạo, tức là chẳng có thành tựu. Phước báo nhân thiên chẳng thể coi là thành tựu, trong Giáo Hạ nhất định phải hiểu điều này. “Tượng Pháp thời kỳ”, Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đó là một ngàn năm thứ hai, “Thiền Định thành tựu”, nên phong khí Thiền triển khai rộng khắp tại Trung Quốc, pháp vận của Thiền là một ngàn năm. Hiện thời chẳng c̣n nữa, nay là thời kỳ Mạt Pháp, đại khái là hiện thời học Thiền đắc Định đều chẳng thấy. Thời kỳ Mạt Pháp, đức Phật dạy “Tịnh Độ thành tựu”. Mạt Pháp là một vạn năm, hiện thời đă qua một ngàn năm. Từ xưa đến nay, theo sự ghi chép của các bậc cao tăng đại đức Trung Quốc, chúng ta có thể thấy điều này từ các kinh điển bằng tiếng Hán, Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh vào năm hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, tức năm Giáp Dần. Thích Ca Mâu Ni Phật tuổi Cọp, năm Dần là năm Cọp, Giáp Dần mà! Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt vào năm năm mươi ba đời Châu Mục Vương. Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế tám mươi tuổi. Người Trung Quốc tính tuổi theo lối hư tuế (tuổi ta), c̣n người ngoại quốc tính theo tuổi thật nên là bảy mươi chín tuổi. Nếu dựa theo cách tính toán này cho đến hiện thời, tức là từ năm Châu Mục Vương năm mươi ba cho tới hiện thời sẽ là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm. Đến nay, Mạt Pháp đă trải hơn một ngàn năm, tức là một ngàn lẻ ba mươi bảy năm, sang năm là một ngàn lẻ ba mươi tám năm. Nhằm thời Mạt Pháp th́ “Mạt Pháp thời kỳ, Tịnh Độ thành tựu”, Thích Ca Mâu Ni Phật thọ kư chuyện này. Chúng ta sanh nhằm thời kỳ Mạt Pháp, nhất tâm nhất ư tu pháp môn Tịnh Độ, nghe theo giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài dạy chúng ta hăy tu Tịnh Độ trong thời kỳ này.     

      Trong các kinh luận Tịnh Độ, bộ kinh này là kinh điển trọng yếu nhất, là đại kinh căn bản của Tịnh Độ, kinh Vô Lượng Thọ thích hợp thời đại này. Trong Tịnh Độ, vào lúc kết thúc một ngàn năm thứ nhất của thời Mạt Pháp, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trong thế gian, v́ chúng ta hội tập một bản kinh viên măn như vậy, khẳng định kinh bổn này c̣n được lưu truyền chín ngàn năm nữa. Do vậy, tại ngoại quốc, rất nhiều người nói đến tận thế, nhưng Phật pháp chẳng như vậy! Phật pháp hăy c̣n chín ngàn năm về sau nữa, lẽ đâu có tận thế? Pháp vận chín ngàn năm, trong quá khứ, Chương Gia đại sư bảo tôi, [pháp vận] có hưng, có suy, hễ có hưng, có suy, sẽ chưa phải là diệt pháp, chư Phật, Bồ Tát sẽ chiếu cố. Chúng ta hiện thời đang [ở vào thời kỳ Phật pháp] suy vi, suy đến tột cùng chính là thời đại này. [Phật pháp] có thể hưng khởi hay không? Có thể! Chúng ta lưu ư, có những người trẻ tuổi, thanh thiếu niên thật sự có thiện căn, tôi nghĩ trong số ấy có những vị tái lai, nếu phát hiện những người ấy, chúng ta hăy toàn tâm toàn lực giúp họ, đời này qua đời khác sẽ dần dần hưng vượng lên.

      Đây là nói theo nhà Phật, tổ sư đại đức dạy chúng ta ư nghĩa của Quán Đảnh, ư nghĩa thật sự của sự Quán Đảnh được tŕnh bày bằng mấy câu này. “Đại bi hộ niệm” là ư nghĩa của chữ Quán, chân quán, Đại Bi hộ niệm! Phật quả tột đỉnh, kinh Vô Lượng Thọ là Phật quả tột đỉnh. Quư vị thấy trong quá khứ, các vị đại đức thời Tùy - Đường cũng nhằm lúc tâm huyết sôi trào, mọi người ngồi lại đàm luận: “Thuở đức Thế Tôn tại thế, giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm, bộ kinh nào là đệ nhất, trọng yếu nhất?” Gần như mọi người đều công nhận kinh Hoa Nghiêm là bậc nhất. V́ thế, tôn xưng kinh Hoa Nghiêm là “căn bản pháp luân”. Thuở trước, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật giáo cho tôi, đă nhắc tới kinh Hoa Nghiêm, bảo kinh Hoa Nghiêm là khái luận triết học trong kinh Phật. Theo cách nh́n ấy của cụ, khái luận triết học trong kinh Phật th́ cũng là chí cao vô thượng. Cụ đặc biệt giới thiệu với tôi, trong kinh ấy có lư luận viên măn, có phương pháp tinh xác, tức là phương pháp tinh mật và xác thực, phía sau lại c̣n kèm theo biểu diễn. Cụ nói các sách triết học trên toàn thế giới chẳng có sách nào có thể sánh bằng kinh Hoa Nghiêm. Quả thật, kinh Hoa Nghiêm quá hay, cuối kinh là năm mươi ba lần tham học nhằm biểu diễn cho chúng ta thấy. Cuối kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy kinh viên măn như thế nào? Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, Hoa Nghiêm đạt đến rốt ráo viên măn. Chư vị phải biết: Nay chúng ta đang đọc phẩm này là phẩm thuộc Tự Phần, “Đức Tuân Phổ Hiền”. Do vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới là thế giới ǵ? Thế giới của Phổ Hiền Bồ Tát, chẳng phải là thế giới Hoa Nghiêm hay sao? V́ thế, nói Hoa Nghiêm đến cuối cùng quy kết về đâu? Quy vào Vô Lượng Thọ. Vô Lượng Thọ là đệ nhất trong đệ nhất, điều này đă được các vị tổ sư đại đức công nhận từ xưa. Ngàn kinh vạn luận chỗ nào cũng chỉ quy, Thích Ca Mâu Ni Phật luôn dẫn dắt chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật, nhất định sẽ chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề trong hội A Di Đà Phật. Do vậy, đối với Quán Đảnh, kinh Vô Lượng Thọ mới thật sự là “đảnh pháp” (pháp cao tột đỉnh), cao hơn kinh Hoa Nghiêm, chúng ta phải biết điều này. V́ thế, gọi là Đảnh. Bởi lẽ đó, đọc bộ kinh này từ đầu [đến đuôi] một lượt tức là được mười phương hết thảy Như Lai quán đảnh một lần, thật đấy, chẳng giả. Có thể y giáo phụng hành, lẽ nào chẳng được lợi ích!

      “Chư Phật hộ niệm, linh chí Phật đảnh trụ, giai danh Quán Đảnh dă. Kim kinh vân ‘thăng Quán Đảnh giai’, đối dự hội đại sĩ nhi ngôn, năi chỉ Hậu Vị” (chư Phật hộ niệm khiến cho đạt đến trụ nơi Phật đảnh, đều gọi là Quán Đảnh. Nay kinh này nói “đạt lên địa vị Quán Đảnh”, đối với các vị đại sĩ tham dự pháp hội mà nói th́ họ là Hậu Vị [Quán Đảnh]). Sơ Vị đối với Hậu Vị là nâng lên từng bậc, nâng lên tới địa vị Diệu Giác. Chư Phật hộ niệm giúp cho chúng ta thành Phật, đạt đến Phật đảnh trụ, đó là ư nghĩa “Quán Đảnh”. “Nhược chỉ giáo đạo chúng sanh, tắc thọ quán giả thị Sơ Vị” (nếu nói về phía chúng sanh được chỉ dạy th́ người thọ Quán Đảnh thuộc Sơ Vị). Nay chúng ta tiếp nhận Phật pháp, tiếp nhận kinh Vô Lượng Thọ, thật sự y giáo tu học, th́ là Sơ Vị Quán Đảnh. Quư vị đến thế giới Cực Lạc, tương lai thành Phật, đó là Hậu Vị Quán Đảnh. Ở đây là Sơ Vị. Đoạn này nhằm giải thích ư nghĩa của sự Quán Đảnh.

      Đoạn kế tiếp là thọ kư, “thọ Bồ Đề kư”, câu kinh văn này cũng trích từ bản Đường dịch. “Thọ giả, phó dữ chi nghĩa (cấp nhĩ). Kư giả, kư thức chi nghĩa, diệc tức huyền kư chi kư” (Thọ () có nghĩa là trao cho (cho quư vị). Kư () nghĩa là ghi nhớ, mà cũng là chữ Kư trong huyền kư), giống như nay chúng ta nói là “tiên đoán”, dự báo trước, chứ hiện thời quư vị vẫn chưa đạt được. “Phật đối phát đại tâm chi chúng sanh, thọ dữ đương lai tất định tác Phật chi kư, xưng vi Thọ Kư” (Đức Phật đối với những chúng sanh phát đại tâm, dự đoán người ấy trong tương lai nhất định làm Phật, th́ gọi là Thọ Kư). Trước hết, chúng ta phải hiểu [từ ngữ] “phát đại tâm chúng sanh”, “đại tâm” là đại Bồ Đề tâm, phát tâm làm Phật, ta trong một đời này muốn thành Phật, đối với những người như vậy đức Phật mới thọ kư. Làm Phật bằng cách nào? Niệm Phật bèn thành Phật. Nói cách khác, thật sự phát tâm tu pháp môn Tịnh Độ, đều là chúng sanh phát đại tâm, v́ sao? Tịnh Độ là đại pháp, chẳng phải là tiểu pháp. Tịnh Độ là đại thành tựu, chẳng phải là tiểu thành tựu. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng phải là chứng A La Hán, chẳng phải là chứng quả vị Bồ Tát, đến thế giới Cực Lạc là thành Phật, quư vị và Thích Ca, A Di Đà Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật có địa vị giống nhau. Do vậy, thật sự phát tâm niệm Phật chẳng tuyệt diệu ư? Người b́nh phàm chẳng biết, lục đạo chúng sanh cũng không biết. Không chỉ lục đạo chẳng biết, ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật trong mười pháp giới cũng đều không biết. Mười pháp giới vẫn là phàm phu chưa kiến tánh y như cũ, Phật trong mười pháp giới chưa phải là chân Phật. V́ thế, Thiên Thai đại sư gọi những vị Phật ấy là Tương Tự Tức Phật, chưa phải là Chân Phật. Minh tâm kiến tánh mới là chân Phật, vị ấy sử dụng chân tâm. V́ lẽ đó, pháp môn này không ǵ cao hơn, không ǵ bằng, khôn sánh; chúng ta đă gặp gỡ mà trọn chẳng biết trân quư, chẳng biết giá trị. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào cũng đều chẳng thể sánh bằng pháp môn này, ngay cả Hoa Nghiêm vẫn chẳng sánh bằng. Nếu Hoa Nghiêm thật sự hay hơn, cần ǵ cuối kinh phải có mười nguyện Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc? Chẳng cần thiết! Cuối cùng [kinh Hoa Nghiêm] vẫn phải dùng mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, quư vị nghĩ xem có ư vị ǵ!

      Bản thân tôi biết ḿnh căn tánh chẳng thông lợi, nghiệp chướng rất nặng. Thuở ban đầu học Phật, suốt mười mấy năm chẳng hiểu Tịnh Độ. Thầy khuyên tôi học Tịnh Độ, thầy Lư đă khuyên mười mấy lần, tôi vẫn chẳng động tâm. Thậm chí thầy c̣n phải thốt ra những lời mà người b́nh phàm rất khó nói. Thầy bảo tôi: “Anh cứ tu Tịnh Tông thử coi! Anh thấy bao nhiêu vị đại sư, đại đức từ xưa đều học pháp này. Vạn nhất là bị lừa th́ cả đống người bị lừa như vậy, chúng ta bị gạt lần này cũng chẳng sao!” Dùng những lời như thế bảo ban, khuyên nhủ tôi, tôi vẫn chẳng tiếp nhận, tôi cười cười, chẳng dám phản bác thầy, nhưng tôi vẫn học Giáo. Khi đó, tôi học Giáo là học Hoa Nghiêm. Tin tưởng [Tịnh Độ] như thế nào? Cũng là có một ngày đột nhiên cảm nhận, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, đó là hai vị đại Bồ Tát được tôn kính nhất trong tâm mục của người học Hoa Nghiêm, tôi nghĩ hai Ngài do học pháp môn ǵ mà thành tựu? C̣n có Thiện Tài đồng tử là môn sinh đắc ư, là đệ tử nhập môn của Văn Thù Bồ Tát, chắc chắn Thiện Tài tu cùng một pháp môn với ngài Văn Thù. Lúc đó, tôi đă giảng kinh Hoa Nghiêm được một nửa, phần sau chưa giảng đến, lật phần sau ra coi, coi đến quyển thứ ba mươi chín trong bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, [nhận thấy] Văn Thù Bồ Tát phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc, Phổ Hiền Bồ Tát cũng phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc. Trong phần trước, chúng ta đă niệm hai bài văn phát nguyện của các Ngài. Tôi cảm thấy rởn da gà, chuyện này là như thế nào? Sau đấy, đọc kỹ lưỡng năm mươi ba lần tham học mới thấu hiểu. Vị thiện tri thức thứ nhất trong năm mươi ba lần tham học là tỳ-kheo Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội. Ban Châu tam-muội là chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc. Thiện Tài đồng tử tham phỏng vị thiện tri thức ấy tức là ǵ? Tương trưng “tiên nhập vi chủ”! Lại nh́n vào vị thiện tri thức cuối cùng, mười đại nguyên vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Chúng tôi khẳng định, Thiện Tài đồng tử từ đầu tới cuối niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Do như vậy, tôi mới tin tưởng Tịnh Độ, mới thật sự không dám khi dễ kinh luận Tịnh Độ. Tôi trở về Tịnh Độ chẳng dễ dàng, nhưng đă quay về bèn thật sự quay đầu, chẳng giả, tôi đă hiểu rơ ràng. Sau khi đă hiểu rơ, tôi mới tin tưởng, mới tiếp nhận. Chưa hiểu rơ ràng, minh bạch, thầy khuyên cách nào, quư vị thấy tôi đều chẳng động tâm.

      V́ vậy, những ai đă dẫn tôi vào Tịnh Độ? Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm. Lúc ấy, tôi ưa thích giảng những kinh điển ấy, giảng đại ư kinh Pháp Hoa, tôi nhớ h́nh như lúc ấy giảng đại ư kinh Pháp Hoa sáu mươi giờ. Đúng là chẳng dễ dàng, nhận biết rơ ràng, hiểu minh bạch th́ mới là “được Phật thọ kư”. Quư vị thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch, khăng khăng một mực tu học pháp môn này, hiện tiền được Phật thọ kư. Khi nào đức Phật sẽ thọ kư cho quư vị? Quư vị đọc đến đoạn kinh văn này, ở đây là thọ kư Bồ Đề. “Thăng Quán Đảnh giai, thọ Bồ Đề kư” (lên địa vị Quán Đảnh, thọ kư Bồ Đề), chính là thọ kư cho quư vị. [Nói cách khác], hai câu kinh văn này là đức Phật thọ kư cho quư vị. Chúng ta phải thẳng thừng đảm nhận, chớ nên khách sáo. Nếu nghĩ “đấy là Phật thọ kư cho Bồ Tát, ta chẳng có phần” th́ lỡ làng rồi! Quư vị phải cùng với các vị Bồ Tát tiếp nhận lời thọ kư của đức Phật, đó là chánh xác. Do vậy, quư vị thấy đó, mỗi ngày quư vị đọc kinh này là mỗi ngày khai ngộ, mỗi ngày được Phật quán đảnh, mỗi ngày được Phật thọ kư, khẳng định quư vị phiền năo ngày càng nhẹ, chắc chắn trí huệ ngày càng tăng trưởng.    

      “Kinh trung”, câu kinh ấy, “thọ Bồ Đề kư, biểu dự hội đại sĩ quân mông thọ kư” (“thọ Bồ Đề kư” biểu thị các đại sĩ tham dự pháp hội đều được thọ kư), chúng ta cũng thuộc trong số đó, chẳng lọt ra ngoài. Quư vị chẳng chân tâm tu pháp môn này sẽ chẳng có phần, chẳng thuộc vào đó. Ta chân tâm tu pháp môn này, buông các pháp môn khác xuống, toàn tâm toàn ư chuyên tu pháp môn Niệm Phật, một phương hướng, một mục tiêu, một phương hướng là Tây Phương Tịnh Độ, một mục tiêu là thân cận A Di Đà Phật. Hăy nhớ “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, ư niệm có năng lượng chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta chỉ có một ư niệm này, thân cận A Di Đà Phật, chỉ có một ư niệm ấy, vĩnh viễn theo gót A Di Đà Phật, học tập A Di Đà Phật, đó là đúng. “Định đương tác Phật” (nhất định sẽ làm Phật), văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có ai không thành Phật. Tuy thành Phật có sớm hay trễ khác nhau, nhưng có thể nói: Đều là thành Phật rất nhanh chóng! Quư vị thấy người hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư là địa vị thấp nhất, đạt đến “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” chỉ cần mười hai kiếp. Thoạt nh́n, chúng ta thấy mười hai kiếp rất dài, nhưng trong thế giới Cực Lạc [thời gian ấy] rất ngắn, do thọ mạng là vô lượng thọ nên mười hai kiếp c̣n chưa bằng mười hai ngày! Trong các thế giới phương khác, chẳng t́m được điều này! Trong các thế giới phương khác, quư vị phải đoạn phiền năo, quư vị nghĩ xem phiền năo rất khó đoạn. Đoạn Kiến Tư phiền năo rồi mới chứng A La Hán, thành Phật càng xa xôi. Càng tiến lên cao, phiền năo càng khó đoạn. Do vậy, trong các thế giới phương khác, [chẳng hạn như trong] thế giới Sa Bà của chúng ta, thành Phật phải mất vô lượng kiếp. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chậm nhất là mười hai kiếp, nhanh nhất th́ sao? Nhanh nhất là tới đó bèn thành! Chúng ta chưa thể đạt được nhanh nhất, nhưng cũng chẳng đến nỗi chậm nhất. Thông thường trong thế giới Cực Lạc, để thành Phật, ước chừng ba, bốn, năm kiếp là đă thành tựu, thật sự hy hữu, khó gặp. “Phục chỉ thị chư đại sĩ quảng vị chúng sanh thọ kư tác Phật” (lại c̣n có nghĩa là các vị đại sĩ ấy đă thọ kư cho rộng khắp các chúng sanh đều thành Phật), câu này đă bao gồm toàn bộ chúng ta trong đó. Các vị đại sĩ ấy là các vị Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà cũng là các vị Bồ Tát trong mười phương các cơi Phật, chẳng có vị nào không giảng bộ kinh này, chẳng có vị nào không truyền pháp môn này, đều là khuyên trọn khắp hết thảy chúng sanh hăy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Những vị ấy đă thọ kư hết thảy chúng sanh làm Phật, thật vậy, chẳng giả. Chúng ta đă gặp gỡ, phải cảm ân, phải thật sự tu tập. Pháp môn này và kinh điển này đă ban cho chúng ta hy vọng vô cùng, chúng ta phải nhận biết, phải nắm vững cơ duyên này, quyết định thành tựu trong một đời này. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 55 hết

 



[1] Cụ Triệu Phác Sơ quê ở huyện Thái Hồ, tỉnh An Huy, Ḥa Thượng Tịnh Không quê ở huyện Lô Giang, tỉnh An Huy.

[2] Kevin Michael Rudd (sinh năm 1957) là thủ tướng thứ 26 của Úc từ năm 2007 đến năm 2010, thuộc đảng Lao Động. Ông chủ trương điện toán hóa ngành giáo dục Úc, tức là mỗi học sinh từ cấp hai trở lên phải có một máy computer trên bàn học trong trường, đồng thời nới rộng chính sách di dân, tăng thuế, cũng như nhiều chính sách quan trọng khác. Người Hoa đă đọc tên ông ta theo kiểu họ trước tên sau nên trong cộng đồng Hoa Kiều tại Úc, ông ta thường được gọi là Lục Khắc Văn (Rudd Kevin).

[3] Bổn Tôn (Istha-devatā) là thuật ngữ trong Mật Giáo, tức là vị chủ pháp của một đàn tràng Mạn Đà La. Bổn Tôn có thể là Phật, Bồ Tát hoặc Minh Vương, là đối tượng chánh yếu để quán tưởng, hành tŕ của một mật pháp nào đó. Chẳng hạn, hành nhân tu chú Đại Bi th́ Bổn Tôn là Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Âm. Bổn Tôn của chú Lục Tự Đại Minh là Tứ Tư Quán Âm (Quán Âm bốn tay). Trong các phép tu của Mật Tông, thông thường khi tụng niệm chú, hành giả phải quán tưởng chủng tự (Bija, seed syllable) rành rẽ từng nét, từ chủng tự ấy lưu xuất Bổn Tôn đúng theo mô tả trong nghi quỹ mà hành nhân đang tu tập. Mật Tông Tây Tạng lại quan niệm có Nội Tam Bảo và Ngoại Tam Bảo. Ngoại Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, Nội Tam Bảo là Guru (thượng sư), Bổn Tôn và Hộ pháp (Dharmapala) – Không Hành Nữ (Dakini).

[4] Giáo Thọ là cách người Hoa dịch chữ Professor hiện thời.

[5] Đây là nói theo nghi thức Đông Mật (Đường Mật), chứ Mật Tông Tây Tạng sẽ dùng một loại b́nh riêng, thường gọi là Bhumpa, thường làm bằng bạc hoặc đồng, có cẩn đá quư, chạm khắc các phù hiệu cát tường, hoặc mật chú, trên miệng b́nh có vành loe ra để lạt-ma cầm khi quán đảnh. Bhumpa có thể có ṿi hay không. Thay v́ cành dương, thường dùng một túm lông công gắn trên một cái cán gỗ, cắm vào b́nh Bhumpa. Khi quán đảnh sẽ dùng cán lông công ấy rưới nước lên đầu hành nhân (theo truyền thuyết Ấn Độ, loài công có thể ăn chất độc mà không sao, chúng có thể biến chất độc thành những màu sắc rực rỡ trên đuôi, nên lông công mang ư nghĩa tịnh hóa). Đôi khi các lạt-ma c̣n rót nước ra cho hành nhân uống và bôi lên đầu.

[6] Minh điểm (Bindu) hoặc thường được biết dưới danh từ Tây Tạng là Thigle. Theo lư thuyết Mật Tông, Minh Điểm là tinh hoa của sanh mạng lực. Minh Điểm cùng với Khí (rLung) tạo thành cái thân vi tế. Mật Tông Tây Tạng cho rằng trong thân thể con người tồn tại hai Minh Điểm, một có màu hồng, thừa hưởng từ mẹ, và Minh Điểm màu trắng do thừa hưởng từ tinh khí của cha. Phái Shakta trong Yoga Ấn Độ đi xa hơn, quan niệm trong cơ thể con người, năng lượng tỏa ra từ Minh Điểm được tụ hội thành những nút chủ chốt gọi là Chakra (thuật ngữ Tây Tạng là Khorlo, thường được dịch là Khí Luân, Luân Tử, Mạch Luân, Khí Quải, hay Xa Luân. Từ ngữ này thường được các sách Yoga của Việt Nam gọi chệch thành Luân Xa). Trong cơ thể con người có bảy Khí Luân như vậy. Chất dịch do Minh Điểm tiết ra sẽ được các Khí Luân ngăn chặn hay thúc đẩy luân lưu khắp cơ thể. Đường luân lưu này được gọi là Khí Mạch. Như vậy, Mật Quán là cách Quán Đảnh, dạy cho hành nhân biết cách thở hít, quán tưởng để đả thông các Khí Luân và các khí mạch, cũng như điều chỉnh năng lượng ḥng đạt được một mức độ cao hơn trong Thiền Định.

[7] Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā), c̣n gọi là Đại Viên Măn. Theo ḍng Gelugpa, pháp tu này do ngài Kim Cang Tŕ (Vajradhara) truyền cho đại sư Tông Khách Ba (Tsong Khapa, sáng tổ Hoàng Giáo Tây Tạng), nhưng tông phái Kargyupa quan niệm phép tu này do chính Phổ Hiền Pháp Thân Phật truyền cho ngài Tilopa, Tilopa truyền cho Naropa, Naropa truyền cho Milarepa và biến thành một phép tu chủ yếu trong tông Kargyupa. Phép tu Đại Thủ Ấn bắt đầu bằng tu Chỉ, chuyển biến mọi kinh nghiệm cảm nhận thành sự ngộ nhập tánh Không. Thông thường, họ quan niệm Đại Thủ Ấn gồm ba khía cạnh Kiến, Tu và Hành. Kiến là trực nhận thể tánh của tâm là sự thống nhất giữa tánh Không và tịnh quang, mỗi hiện tượng đều mang dấu ấn đặc biệt này. Tu là các phép tu để thể hiện sự trực nhập ấy, bao gồm các phép quán tưởng, tụng niệm thần chú, tŕ giới để tịnh hóa thân tâm. Hành là ứng dụng sau khi đă có kinh nghiệm trực tiếp về Đại Thủ Ấn.

[8] Thụy hiệu (諡號) là tên đặt cho đế vương, đại thần, hậu phi sau khi đă chết nhằm ca ngợi phẩm đức tu dưỡng của người ấy khi c̣n sống, hoặc phê phán. Tục lệ này đă có từ đời Châu, tương truyền, người đặt ra thụy hiệu chính là Châu Công. Tục lệ này bị phế trừ vào đời Tần Thủy Hoàng v́ ông ta quan niệm: “Con phê phán cha, bầy tôi phê phán vua là đại nghịch bất đạo”. Tập tục này lại được tái lập dưới đời Hán. Riêng đối với đế vương, khi cúng giỗ chỉ tuyên đọc thụy hiệu trong văn khấn cúng cơm chứ không đọc tên húy. Đối với vua, thoạt đầu thụy hiệu chỉ có một chữ, tối đa là ba chữ, chia thành ba loại nhỏ:

- Thượng Thụy nhằm ca ngợi đức hạnh của nhà vua như Văn, Khang, B́nh, Mục, Tương v.v... (chẳng hạn sử chép Châu Mục Vương th́ Châu Mục Vương là thụy hiệu của nhà vua, khi vua c̣n sống chỉ dùng niên hiệu).

- Trung Thụy dành cho những vị được coi là minh quân, nhưng vẫn c̣n có một hai những hành vi không đúng lắm. Chẳng hạn như các chữ Mẫn (biết lo lắng cho đất nước), Hoàn (nhân từ, nhưng hơi hẹp ḥi), Kính v.v...

- Hạ Thụy mang tính chất phê phán như Lệ (tàn bạo, thiếu người thân cận, thích tàn sát), U (tối tăm), Linh (loạn lạc, chẳng yên), Dượng (ham chuộng những thứ lễ tiết xa xỉ), Ai (đức chẳng đầy đủ, gặp gỡ tai nạn quá nhiều, chết sớm)...

Từ thời Đường trở đi, thụy hiệu bắt đầu dài ra, nhưng đến đời Minh, thụy hiệu của vua gồm mười bảy chữ hoặc hai mươi mốt chữ, nhà Thanh quy định là hai mươi mốt chữ hoặc hai mươi ba chữ. Chẳng hạn vua Khang Hy có miếu hiệu là Thanh Thế Tổ, thụy hiệu là Thể Thiên Long Vận Định Thống Kiến Cực Anh Duệ Khâm Văn Hiển Vũ Đại Đức Hoằng Công Chí Nhân Thuần Hiếu Chương Hoàng Đế. Nhà Minh cũng quy định thân vương thụy hiệu chỉ có một chữ, quận vương hai chữ, đại thần hai chữ. Khi nói đến các vị danh thần tận trung, thường không gọi thẳng tên mà gọi bằng thụy hiệu như Tăng Văn Chánh (Tăng Quốc Phiên), Lư Văn Trung (Lư Hồng Chương). Ngay cả trong Phật giáo, khi một vị cao tăng đă mất, các vua cũng có thói quen sắc phong thụy hiệu. Chẳng hạn tổ Bách Trượng Hoài Hải khi tịch được vua ban thụy hiệu là Đại Trí Thiền Sư, tháp hiệu là Đại Bảo Thắng Luân.

[9] Bí Tạng Kư là tác phẩm do ngài Không Hải (sáng tổ Chân Ngôn Tông Nhật Bản) viết, ghi lại những điều được khẩu truyền về Mật Pháp từ thầy của ngài là ḥa thượng Huệ Quả trong thời gian cầu pháp tại Trung Hoa.